TOÀN CẦU HÓA - NHỮNG MẶT
TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC, ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN
HÓA DÂN TỘC
PGS.TS. Dương Xuân Sơn
Khoa Báo chí - ĐHKHXH&NV
1. Những thách thức từ toàn cầu
hóa đối với văn hóa dân tộc
Toàn cầu hóa đang là xu thế lớn tác động một cách trực tiếp sâu rộng tới các lĩnh vực đời sống xã hộiii của các quốc gia, dân tộc trong đó có lĩnh vực văn hóa. Xét về bản chất, toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới. Xu thế của toàn cầu hóa bắt nguồn từ sự phát triển của các lực lượng sản xuất từ tính chất xã hộiii của lực lượng sản xuất trên phạm vi quốc tế. Trong các xã hộiii xa xưa, các quốc gia dân tộc tồn tại tương đối biệt lập, ít có quan hệ với nhau. Nhưng cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự tăng tiến của sản xuất và trao dổi hàng hóa, sự mở rộng thị trường, thì các mối quan hệ cũng dần vượt ra khỏi ranh giới quốc gia, hình thành các mối quan hệ quốc tế và cũng từ đó, quá trình quốc tế hóa được bắt đầu. Quá trình quốc tế hóa được đẩy mạnh đặc biệt với sự ra đời của Chủ nghĩa Tư bản từ thế kỷ 16. Những phát kiến về địa lý, những cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa, sự phát triển đại công nghiệp, sự phát triển sản xuất nhờ áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ, sự mở rộng thị trường quốc tế, mở rộng giao lưu quốc tế đã phá vỡ tính chất cát cứ, biệt lập trong phạm vi quốc gia, mở rộng phạm vi hoạt động kinh tế. Quá trình toàn cầu hóa đã được dự báo từ khi Chủ nghĩa Tư bản ra đời, lúc bấy giờ được gọi là quá trình quốc tế hóa. Hơn 150 năm trước đây, Mác và Ăng-ghen đã viết trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới, thay cho tình trạng cô lập trước kia của cá địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những mối quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến của các dân tộc”. Chính Mác đã chia quá trình quốc tế hóa tư bản chủ nghĩa thành hai giai đoạn: Giai đoạn lệ thuộc một cách hình thức của thế giới, trước hết là của các dân tộc “ngoại vi” vào chủ nghĩa tư bản và giai đoạn lệ thuộc thực sự của cả thế giới vào Chủ nghĩa tư bản. Ở giai đoạn đầu, từ thế kỷ 16 chủ yếu là quốc tế hóa lĩnh vực thông vốn, việc chiếm dụng giá trị thặng dư toàn cầu chủ yếu thông qua buôn bán và chiến tranh của chủ nghĩa thực dân cũ. Vào giai đoạn sau, theo Mác, Chủ nghĩa tư bản đã đưa cả thế giới vào một hệ thống phân chia lao động quốc tế. Và cũng từ đó, quá trình quốc tế hóa không ngừng phát triển với những cột mốc lớn: Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, từ những năm 80 tới nay, xu thế quốc tế hóa được gọi bằng một tên mới là toàn cầu hóa (Globalization). Một trong những xu hướng mới toàn cầu hóa hiện nay (chẳng hạn: Kinh tế là việc sáp nhập và hợp nhất các công ty thành các tập đoàn lớn, nhất là các công ty khoa học kỹ thuật, công nghệ nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Ví dụ: Vào thập niên 90, các vụ sáp nhập đã lên đến 2500 tỷ USD. Ở Mỹ, năm 1998, Exon đã sáp nhập Mobile trị giá 86 tỷ USD; Travelers Group sáp nhập Citi Corp trị giá 73,6 tỷ USD; SBC sáp nhập Communications Americantech trị giá 72,3 tỷ USD; Bell Atlantic sáp nhập GTE trị giá 71,7 tỷ USD; AT&T sáp nhập Media online trị giá 63 tỷ USD...). Vào đầu những năm 2000, các cuộc cạnh tranh và sáp nhập các tập đoàn lớn đã diễn ra gay gắt và quyết liệt với quy mô chưa từng có. Ví dụ: Công ty truyền thông hàng đầu thế giới American Online (AOL) đã quyết định mua lại công ty thông tin giải trí thông tin đại chúng lớn nhất thế giới Time Wanner với giá khoảng 160 tỷ USD, đổi tên mới là AOL Time, có tổng giá trị trên thị trường là 360 tỷ USD và doanh thu hàng năm đạt lên tới 30 tỷ USD.
Một nguyên nhân trực tiếp và đồng
thời cũng là biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa là sự tác động mạnh mẽ của các
công ty tư bản độc quyền xuyên quốc gia. Theo số liệu của UNCTAD, trong những
thập niên 90 đã có 53 ngàn doanh nghiệp hoạt động xuyên quốc gia với 450 ngàn
cơ sở sản xuất và chiếm gần 2/3 tổng khối lượng buôn bán trên toàn thế giới,
kiểm soát 2/3 thương mại thế giới, 4/5 nguồn vốn đầu tư trực tiếp ở nước ngoài
và 9/10 kết quả nghiên cứu và chuyển giao công nghệ trên thế giới.
Một đặc trưng cơ bản của toàn cầu
hóa nữa đó là sự phát triển nhanh chóng của quan hệ kinh tế thương mại và chu
chuyển trên phạm vi quốc tế. Hiện nay riêng thị trường tư bản quốc tế có tổng
mức vốn luân chuyển lên tới 400 ngàn tỷ USD trong một ngày, thị trường này trao
đổi khối lượng vốn cao hơn mức vốn của tổng tất cả các ngân hàng trên thế giới.
Trong quá trình toàn cầu hóa và
khu vực hóa, nổi lên xu hướng liên kết kinh tế dẫn đến sự ra đời của tổ chức
kinh tế, chính trị, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực như: Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB),
Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), khu thương mại tự
do Bắc Mỹ (NAFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC),
thị trường tự do Nam Mỹ (Mercosur)...
Cũng trong quá trình toàn cầu hóa
về kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến chính trị dẫn đến sự ra đời của các tổ chức
chính trị quốc tế như Liên hợp quốc và các tổ chức của nó như UNDP, UNFPA,
UNESCO, UNICEP, INCTAD, FAO... đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của các
nước trên phạm vi toàn cầu. Cùng với sự hình thành các tổ chức chính trị quốc
tế, quá trình toàn cầu hóa đã hình thành luật pháp quốc tế như công ước quốc tế
về luật biển năm 1982, tuyên bố thế giới về nhân quyền, công ước LHQ về quyền
trẻ em mà Việt nam là nước tham gia ký kết sớm nhất châu Á.
Như vậy, không có toàn cầu hóa
kinh tế một cách thuần nhất, Toàn cầu hóa còn là quá trình được mở rộng tới mọi
lĩnh vực khác của đời sống xã hộiii, trong đó có văn hóa. Đó là quá trình giao
lưu, trao đổi, hội nhập và cả đấu tranh một cách tự nhiên giữa các nền văn hóa.
Thông qua các hình thức liên kết kinh tế, chuyển giao công nghệ, luân chuyển
vốn và mở rộng thị trường, các nền văn hóa khác nhau có điều kiện giao lưu,
truyền bá, lan tỏa và thẩm thấu lẫn nhau làm cho văn hóa phong phú, đa dạng.
Tuy nhiên, hiện nay toàn cầu hóa
đang có hiện tượng đồng hóa văn hóa (hoặc các mặt kinh tế, xã hộiii) dưới sức
ép của quyền lực nước lớn muốn áp đặt
văn hóa và hệ thống tư tưởng của mình lên các quốc gia khác trên phạm vi
toàn cầu. Tiến trình này xét theo góc độ địa - chính trị- văn hóa, nó được cảnh
báo như là một cuộc “xâm lăng văn hóa”, không chỉ ở một khu vực nào đó mà còn ở
cấp độ quy mô thế giới. Trong cuộc “xâm lăng văn hóa” này, kẻ xâm lăng chính là
chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Với lợi thế vượt trội hơn hẳn về
mọi mặt, chủ nghĩa tư bản đang tự cho mình quyền áp đặt cái gọi là giá trị của
“thế giới tự do”, Mỹ đã từng tuyên bố: “Chúng ta (America) sẽ mở rộng hòa
bình bằng cách khuyến khích mở cửa và tự do tại các xã hộii trên mọi lục địa”
(1). Từ đó cho thấy nguy cơ đang đặt ra những mối đe dọa và
thách thức lớn đối với việc bảo vệ, giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dân
tộc.
Những nguy cơ, thách thức do toàn
cầu hóa đối với văn hóa dân tộc biểu hiện ở những mặt sau:
Thứ nhất,
nguy cơ làm lu mờ quan điểm coi trọng truyền thống, dẫn đến tình trạng xem nhẹ
tính kế thừa các giá trị văn hóa dân tộc trong bộ phận cán bộ nhân dân. Đó là
thông qua các quan hệ kinh tế, các nước tư bản tích cực truyền bác các giá trị
phương Tây, khai thác và phát triển tâm lý hưởng lạc vật chất tầm thường, đánh
vào thị hiếu thấp hèn của một bộ phận dân chúng và cán bộ, công chức trong hệ
thống chính trị làm thay đổi quan niệm của họ về giá trị văn hóa truyền thống.
Các giá trị văn hóa phương Tây đang thâm nhập ngày càng tăng, từ đó tạo ra
trong lòng xã hộiii trào lưu “cách tân”, xem nhẹ và quay lưng lại với các giá
trị truyền thống và coi thường tính kế thừa, tạo ra một lớp người “mới” xa lạ,
mất gốc và không định hướng được tương lai, gieo rắc và khuyến khích các loại
hình văn hóa độc hại, các tệ nạn xã hộiii phát triển nhằm từng bước hủy hoại
sức sống văn hóa dân tộc. Theo tổ chức Văn hóa, Khoa học, Giáo dục của Liên Hợp
Quốc (UNESCO) hiện nay hãng thông tấn liên bang và hãng thông tấn AP (Mỹ) sử
dụng 100 thứ tiếng để phát tin liên tục trong ngày 24/24 giờ vào 100 quốc gia.
Mạng internet, số lượng bài viết truyền bá các giá trị Mỹ và phương Tây với gần
7 triệu chữ được đưa lên mạng hàng ngày. Các chương trình truyền hình của các
nước đang phát triển sử dụng từ 60 -70% các nội dung chương trình của các kênh truyền
hình Mỹ và phương Tây, biến các kênh truyền hình, phát thanh của các nước này
thành trạm trung chuyển cho truyền hình Mỹ và Phương Tây.
Thứ hai, nguy cơ đồng hóa văn hóa bởi cái
gọi là giá trị của “thế giới tự do”. Bắt nguồn từ học thuyết của S. Hăn -Tinh-
Tơn, một học giả người Mỹ với tên gọi “Cuộc xung đột giữa các nền văn minh”
(2) . Bản chất của học thuyết này chỉ bao biện cho các hành
động của chủ nghĩa đế quốc, gieo rắc tâm lý lo sợ về một thảm họa do xung đột
văn hóa gây ra. Điều mà chúng ta thấy ở đây đó là văn hóa phương Tây hay làn
sóng văn minh phương Tây đang phát triển, tạo ra nguy cơ đẩy văn hóa truyền
thống về phía sau.
Với Việt Nam, Nghị quyết Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng CSVN đã chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển
sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế xã hộiii, làm
cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hộiii. Xây dựng và hoàn
thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập quốc tế”(3).
Thứ ba, nguy cơ “diễn biến hòa bình”.
Điều này được các thế lực thù địch tận dụng toàn cầu hóa và chính sách đối
ngoại mở cửa của Việt Nam để thực hiện âm mưu phá hoại văn hóa tư tưởng. Âm mưu
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm tạo ra tình trạng tự diễn
biến về văn hóa - tư tưởng. Thể hiện ở quá trình khuyến khích sự truyền bá phổ
biến các giá trị tư sản trong lòng xã hộiii Việt Nam, lấn át các giá trị ưu
việt của xã hộiii chủ nghĩa và các giá trị văn hóa dân tộc. Tự diễn biến văn
hóa - tư tưởng đồng nghĩa với quá trình thúc đẩy các phức tạp xã hộiii, làm đảo
lộn trật tự nhất là các vấn đề nhạy cảm như dân tộc, tôn giáo, dân tộc, dân
chủ, nhân quyền.
Chính “diễn biến hòa bình” đang
tạo ra nguy cơ thẩm thấu gặm nhấm các giá trị văn hóa xã hộiii chủ nghĩa và bản
sắc văn hóa dân tộc, làm cho người ta quên đi nghĩa vụ, quên đi bản quán, gốc
rễ cội nguồn. Bản thân “diễn biến hòa bình” đang tìm mọi cách để tạo ra mâu
thuẫn xã hộiii, làm hậu thuẫn cho chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa ly khai, làm
nhụt chí trong nhân dân, đánh lạc phương hướng.
Đây là nguy cơ tiềm ẩn những nguy
hiểm lớn, cần cảnh giác cao độ để đánh tan nó.
2. Những mặt tích cực và tiêu cực
của toàn cầu hóa
2.1. Tích cực
Toàn cầu hóa thúc đẩy rất
nhanh sự phát triển và xã hộiii hóa của lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng
trưởng kinh tế cao,nhất là vào nửa đầu của thế kỷ 20, GDP thế giới tăng hơn 2,7
lần, đến cuối thế kỷ thì đã tăng lên 5,5 lần. Toàn cầu hóa góp phần chuyển biến
cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt tăng mạnh các sản phẩm chế tác, chiếm khoảng
22% và các dịch vụ chiếm 63% trong cơ cấu kinh tế thế giới. Toàn cầu hóa tạo
thêm những tiền đề rất quý cho xã hộiii mới hiện đại. Xét từ góc độ này, ngay
cả những khiếm khuyết của toàn cầu hóa tuy có hại nhưng nó đã góp phần vào việc
đặt ra hoặc cảnh báo những vấn đề lớn của tương lai và mở ra các giải pháp. Sự
phát triển bền vững kinh tế xã hộiii với sự tôn vinh con người là nguồn lực
chính, với mối quan tâm đặc biệt tới môi trường sinh thái cũng xuất phát từ
tiến trình toàn cầu hóa. Mặt khác, toàn cầu hóa truyền bá và chuyển giao trên
quy mô ngày càng lớn những thành quả, những đột phá sáng tạo về khoa học và
công nghệ, về tổ chức và quản lý, về sản xuất và kinh doanh, đưa kiến thức và
kinh nghiệm đến với các dân tộc, đến từng hộ gia đình, từng con người và dọn
đường cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Chính toàn cầu hóa tạo nên khả năng
phát triển rút ngắn, mang lại những nguồn lực rất quan trọng, cần thiết cho các
nước đang phát triển từ các nguồn vốn vật chất đến các nguồn tri thức và kinh
nghiệm, cả về chiến lược lâu dài, về tổ chức và cả ở tầm vĩ mô của một quốc gia
và tầm vi mô của từng doanh nghiệp và cá thể. Toàn cầu hóa đã gây sức ép mãnh
liệt và gay gắt về mặt cạnh tranh do dó đòi hỏi những tiến hành cải cách sâu
rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của mỗi nền kinh tế, mỗi doanh
nghiệp, chỉ rõ yếu tố hàng đầu của yếu tố chất lượng, thời gian, nâng cao giá
trị gia tăng để có sức cạnh tranh và hiệu quả. Mặt khác, toàn cầu hóa mở ra
những địa bàn và cách thức hoạt động mới, những thị trường mới, những đối tác
mới cho từng nước như các nước đang phát triển. Toàn cầu hóa thúc đẩy sự xích
lại gần nhau giữa các dân tộc, kích thích các luồng và các dạng giao lưu, làm
cho con người ở mọi châu lục ngày càng hiểu biết nhau hơn, nắm bắt được mọi
tình hình, cập nhật ở mọi nơi và góp phần tác động nhanh chóng đến các sự kiện.
Toàn cầu hóa cũng góp phần vào sự nâng cao dân trí và sự tự khẳng định mình của
các dân tộc và của từng con người.
2.2. Mặt tiêu cực
Toàn cầu hóa làm tăng thêm sự bất
công xã hộiii, khoét sâu hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các
nước. Trong 1 báo cáo mới đây của UNDP đã khẳng định các thế lực của quá trình
toàn cầu hóa đã mang lại sự giàu có vô độ cho những người biết tận dụng lợi thế
của các luồng hàng hóa, dịch vụ đang tràn qua các đường biên giới quốc gia
trong khi đa số dân chúng bị đẩy ra ngoài lề xã hộiii. Xét theo nhiều khía cạnh,
dân chúng ở gần 100 quốc gia trên thế giới đã có mức sống thấp hơn so với nhiều
năm trước đây. Khoảng cách giữa giàu và nghèo ngày càng lớn. Các nước công
nghiệp phát triển với khoảng 1,2 tỷ người chiếm 1/5 dân số thế giới hiện đang
chiếm tới 85% GDP toàn cầu, 4/5 thị trường xuất khẩu, 1/3 đầu tư trực tiếp của
nước ngoài và 75% số máy điện thoại; trong khi đó các nước nghèo nhất chiếm 1/5
dân số thế giới chỉ tạo ra 1%GDP toàn thế giới. Hiện nay vẫn còn hơn 1 tỷ người
nghèo, những người giàu thì chỉ chiếm 20% dân số nhưng lại chiếm hơn 86% chi
phí dành cho tiêu dùng trong khi sản xuất thực phẩm cơ bản toàn thế giới đã ở
trên mức 110% nhu cầu thì hàng năm trên 30 triệu người vẫn tiếp tục chết đói,
hàng triệu người vẫn thiếu ăn. Ví dụ: Người giàu tiêu thụ 45% lượng thịt cá
trên thế giới trong khi người nghèo chỉ tiêu thụ 5%, số người sử dụng internet
đã tăng lên hàng trăm triệu nhưng mạng thông tin toàn cầu chỉ đa số được dùng
nhiều trong các nước công nghiệp phát triển. Toàn cầu hóa cũng làm cho mọi mặt
hoạt động và đời sống của con người thêm kém an toàn, từ kinh tế, tài chính văn
hóa xã hộiii cho tới môi trường đến an toàn chính trị và an toàn của từng con
người, từng gia đình đến an toàn của quốc gia và an toàn của hệ thống kinh tế
tài chính tiền tệ thế giới. Toàn cầu hóa có phần thu hẹp quyền lực, phạm vi và
hiệu quả tác động của các Nhà nước dân tộc, làm rung chuyển một nền tảng tích
cực quan trọng của đời sống các quốc gia, đặt ra những vấn đề nhạy cảm và gây
nên những phản ứng quyết liệt. Mặt khác, về mặt xã hộiii, toàn cầu hóa cũng tạo
ra nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc, đánh mất độc lập tự chủ quốc gia, nó cũng
tạo ra các khả năng quốc tế hóa các hiện tượng tiêu cực như buôn bán ma túy,
mại dâm, du nhập lối sống đồi trụy, chủ nghĩa khủng bố, lây truyền các bệnh
dịch HIV - AIDS...
3. Toàn cầu hóa và ảnh
hưởng của nó đến việc giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc
Như trên đã phân tích, toàn cầu
hóa đang tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực trong đó có văn hóa, đặc biệt như
Việt Nam, một dân tộc có nền văn hóa lâu
đời, khẳng định niềm tự hào của bao thế hệ về độc lập chủ quyền của đất nước
trước kẻ thù xâm lược. Văn hóa là một di dản vô cùng quý báu được lưu truyền,
kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bản sắc văn hóa Việt nam bao gồm những
giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc được vun đắp nên
trong quá trình dựng và giữ nước. Nó kết tinh những gì tốt đẹp nhất, đặc sắc
nhất, độc đáo nhất của các cộng đồng dân tộc Việt Nam, nó có giá trị bền vững,
trường tồn cùng thời gian, như một chất keo gắn kết cộng đồng người Việt với
nhau để cùng tồn tại và phát triển. Nó biểu hiện cụ thể ở lòng yêu nước, ý chí
tự lực tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, ý thức cộng
đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ Quốc - lòng nhân ái, sự khoan
dung, trọng nghĩa, trọng tình, cần cù, chịu khó sáng tạo trong lao động, học
tập, sự tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống...
Cốt lõi của văn hóa là bản sắc
văn hóa dân tộc. Từ ngàn đời nay, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam đã làm nên
sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng người Việt vượt qua biết bao thử thách cam
go để không ngừng phát triển và lớn mạnh. Đó cũng chính là điểm tựa cơ bản để
chúng ta hòa nhập vào thế giới. Tính dân tộc là yếu tố cấu thành bản chất nhất
của văn hóa, bản sắc dân tộc của văn hóa là những nét tiêu biểu nhất của văn
hóa, là những giá trị bền vững của dân tộc. Đó là cái độc đáo, cái riêng có
tính bản chất của văn hóa Việt Nam. Điều có thể nhận thấy cái riêng đó trong
phong tục tập quán, trong nếp sống, cách ăn, cách ở, cách mặc, lễ hội, tín
ngưỡng, kho tàng văn hóa dân gian.
Người Việt nam có truyền thống
yêu nước, căm thù giặc mà đoàn kết đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược, bảo vệ
chủ quyền và độc lập của đất nước. Đó là biểu hiện của tinh thần dân tộc, ý chí
giữ gìn những gì thuộc về Việt Nam. Nhân dân Việt Nam đấu tranh chống kẻ thù
không chỉ bằng mọi thứ vũ khí, súng đạn mà bằng cả văn hóa. Trong các thời kỳ
cách mạng, văn hóa Việt Nam được coi là một mặt trận. Văn hóa trở thành một vũ
khí sắc bén để đấu tranh với kẻ thù. Nó có thể phát huy được hiệu quả đấu tranh
khi mang trong mình bản sắc, truyền thống dân tộc. Văn hóa - Dân tộc là hai
phạm trù khác nhau nhưng có liên hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau vì sự khác
nhau giữa các dân tộc là sự khác nhau về văn hóa. Bản sắc mỗi dân tộc được thể
hiện tập trung ở bản sắc văn hóa của chính dân tộc đó.
Ở khía cạnh khác, chính đời sống
văn hóa và giá trị tinh thần của một dân tộc là dấu hiệu để đánh giá nền văn
hóa đó ở trình độ nào, thuộc cộng đồng nào trên thế giới. Có thể nói, đánh mất
bản sắc văn hóa là đánh mất dân tộc.
Con người sống trong xã hộii
không thể tách ra khỏi cộng đồng mình sống cũng như mỗi dân tộc không thể sống
biệt lập với thế giới. Lịch sử thế giới đã chứng minh, các quốc gia luôn có sự
tiếp xúc, giao lưu với nhau qua các cuộc di cư, chiến tranh, trao đổi kinh tế,
học tập, đào tạo, quan hệ hôn nhân, vật phẩm, ngoại giao... Vì thế, bản sắc văn
hóa dân tộc không chỉ được hình thành nên bằng những yếu tố bản thân vốn có mà
nó còn có sự tiếp nhận, biến đổi văn hóa nước ngoài sao cho phù hợp, để nâng
lên thành cái riêng, độc đáo, đặc sắc của dân tộc mình. Với những giá trị riêng
của nó, bản sắc văn hóa của dân tộc có sức sống bền lâu thông qua giao lưu hội
nhập, nền văn hóa nước ngoài cùng tồn tại cùng với văn hóa các dân tộc Việt
Nam. Dân tộc không đồng nghĩa với quá khứ nó vẫn không ngừng tiếp thu những cái
mới để làm phong phú cho mình, nhưng cái bản chất, cái riêng, cái tinh hoa thì
không bao giờ thay đổi, luôn được giữ gìn, phát huy, vun đắp. Đó là khí phách,
tâm hồn, bản lĩnh dân tộc, là gốc rễ để dân tộc Việt Nam hòa nhập với tiến
trình giao lưu quốc tế “hòa nhập mà không hòa tan”.
Bảo vệ, giữ gìn và phát triển bản
sắc văn hóa dân tộc luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm, vì di sản
là vốn quý báu nhất để lại cho muôn đời sau. Nước ta tự hào được UNESCO
công nhận bảy di sản văn hóa thế giới:
Di sản văn hóa vật thể: Vịnh Hạ long, Phong Nha - Kẻ Bàng, phố cổ Hội An, Cố đô
Huế, Thánh địa Mỹ Sơn. Di sản văn hóa phi vật thể: Nhã nhạc cung đình Huế, Cồng
chiêng Tây Nguyên. Trong tuần Hội nghị cấp cao APEC diễn ra ở Việt Nam tháng
11/2006, hàng loạt các hoạt động văn hóa lớn được tổ chức: Đại tiệc “Di dản văn
hóa Việt nam” chào mừng APEC; khái quát lịch sử dân tộc Việt Nam hình thành qua
hiện vật, văn hóa phi vật thể như các chương trình “Dấu ấn văn hóa Huế”, “Tinh
hoa Hà Nội”, nhiều hoạt động nghệ thuật đa dạng như ca trù, hát xẩm, chầu văn,
đờn ca tài tử Nam Bộ, ẩm thực các vùng miền, Việt Nam đã khẳng định được mình,
để lại cho bạn bè nhiều ấn tượng tốt đẹp.
Không chỉ quan tâm giữ
gìn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mà nhân dân ta còn tiếp thu những
tinh hoa văn hóa nhân loại đề làm giàu cho vốn văn hóa của mình. Những thành
tựu khoa học - công nghệ của thế giới cùng với việc mở cửa giao lưu quốc tế là
cơ hội để Việt Nam tiếp thu thành quả trí tuệ của nhân loại. Đề từ đó, tạo nên
một nền văn hóa mới: Kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và
quốc tế. Chiếc áo dài truyền thống có những nét cách tân trong kiểu dáng, hoa
văn trang trí. Nhiều bài hát lấy chất liệu từ dân gian nhưng lại được phối theo
những thể loại nhạc hiện đại như pop, hiphop, rock đã tạo nên sự hấp dẫn cuốn
hút người nghe. Con người Việt Nam, nhất là lớp trẻ vẫn giữ được nét giản dị,
thuần khiết nhưng lại thông minh, năng động, nhạy bén trước nhịp sống phương
Tây. Cùng với những phong tục tập quán, lễ hội ngày Tết, người Việt Nam vẫn nô
nức tham gia những sinh hoạt văn hóa của phương Tây như Noel, Valentine,
Hallowen và nhiều lễ hội khác...
Hướng tới bản sắc văn hóa
dân tộc, chúng ta cần nhìn nhận đánh giá một cách công bằng, minh bạch. Tránh
những suy xét ngộ nhận, cho rằng những gì trong quá khứ của dân tộc đều là
những cái tốt, cái hay, cái đẹp mà không có những hạn chế, thậm chí tiêu cực.
Tìm về bản sắc văn hóa dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
chúng ta nhìn nhận thấy những yếu kém cần khắc phục đó là một số người còn mơ
hồ, bàng quan hoặc mất cảnh giác trước những luận điệu thù địch, xuyên tạc,
không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình,
quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Nghiêm trọng hơn là ở một bộ phận cán
bộ đảng viên, lớp trẻ biểu hiện suy thoái về đạo đức lối sống.
Giao lưu văn hóa với
người ngoài chưa chủ động, tích cực, còn nhiều sơ hở. Nhiều thứ văn hóa phẩm
độc hại, phản động thẩm lậu vào nước ta, trong khi đó, còn nhiều tác phẩm văn
hóa có giá trị của nước ta lại ít đưa ra nước ngoài. Chung ta cũng chưa tạo ra
được nhiều kênh thông tin để đồng bào Việt Nam ở nước ngoài tìm hiểu bản sắc
văn hóa dân tộc, liên hệ mật thiết với quê nhà, góp phần công sức, trí tuệ,
kinh tế vào sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước.
Để khắc phục những hạn
chế, yếu kém tiếp tục bảo vệ, giữ gìn, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc, đáp
ứng yêu cầu phát triển của xã hộiii trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cần thực hiện một số biện pháp sau:
Một là, đầy
mạnh công tác tuyên truyền, vận động quần chúng tích cực tham gia các hoạt động
văn hóa, đặc biệt là phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” trong từng thôn, ấp, phường, xã, khối phố. Chú trọng đầu tư xây dựng
và phát huy hiệu quả các thiết chế văn hóa, phát triển và nâng cao chất lượng
xây dựng gia đình, thôn ấp, khu phố văn hóa.
Hai là, chú
trọng, bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa, bản sắc và truyền thống dân
tộc. Giữ gìn các tác phẩm nghệ thuật, bảo vật, cổ vật và di vật có giá trị đặc
sắc. Coi trọng sưu tầm, khai thác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể.
Ba là, tích
cực xây dựng đời sống văn hóa đại chúng và môi trường văn hóa lành mạnh. Phát
triển xã hộiii hóa các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Nâng cao chất lượng và mở
rộng toàn diện, phổ biến các sản phẩm văn hóa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa
ngày càng cao và đa dạng của các tầng lớp nhân dân, làm cho văn hóa thấm sâu
vào từng khu dân cư, từng người, từng gia đình và xã hộiii.
Bốn là,
tiếp tục mở rộng hợp tác giao lưu văn hóa quốc tế. Tiếp thu có chọn lọc các giá
trị văn hóa nhân loại, nhân văn, khoa học. Giới thiệu những tinh hoa, bản sắc
văn hóa, những thành tựu to lớn của Việt Nam qua hơn 20 năm đổi mới và chính
sách hội nhập của Đảng và Nhà nước ta “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các
nước”.
Năm là,
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và có biện pháp quản lý nhà nước chặt
chẽ, có hiệu quả đối với các hoạt động văn hóa. Kiên quyết chống lại những hiện
tượng phản văn hóa, phi văn hóa.
Sáu là,
tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm văn hóa, nhất là đội
ngũ cán bộ văn hóa cơ sở mới đủ khả năng đáp ứng yêu cầu bảo vệ, giữ gìn và
phát triển bản sắc văn hóa dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay./.
Hà Nội, tháng 7/2007.
Chú thích:
(1) Chiến lược an
ninh quốc gia Mỹ, Washington, 17/9/2002.
(2) Hoàng Hiệp: Bảo
vệ an ninh văn hóa trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Tạp chí Cộng sản số
775 (5/2007, tr50).
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét