Sự thay đổi văn hóa của Nhật Bản và Matsushita
Thành lập vào năm
1920, công ty sản xuất hàng điện tử tiêu dùng Matsushita đã phát triển vượt bậc
và trở thành công ty điện tử hùng mạnh trong khi Nhật Bản trở thành một siêu
cường quốc về kinh tế trong những thập niên 1970 và 1980. Cũng giống như những
doanh nghiệp có từ lâu đời của Nhật Bản, Matsushita được xem như là một thành
lũy của giá trị truyền thống của Nhật Bản dựa trên sự gắn bó tập thể một cách
chặt chẽ, lợi ích có qua có lại và sự trung thành đối với công ty. Một số người
cho rằng sự thành công của Matsushita nói riêng và của Nhật Bản nói chung là do
sự tồn tại những giá trị của đạo Khổng ở nơi làm việc. Ở Matsushita, nhân viên
được chăm sóc từ lúc “chào đời cho đến khi nhắm mắt xuôi tay”. Matsushita cung
cấp cho họ rất nhiều lợi ích khác nhau bao gồm chi phí nhà rẻ, chế độ làm việc
suốt đời, hệ thống trả lương dựa trên thâm niên và những khoản tiền thưởng hưu
rất hấp dẫn. Bù lại Matsushita kỳ vọng vào sự trung thành và làm việc chăm chỉ
từ các nhân viên của nó. Đối với thế hệ người dân Nhật Bản sống sau chiến
tranh, phải trăn trở để vượt qua nỗi nhục thua trận, thì đó dường như là một sự
thoả thuận hợp lý. Các nhân viên đã làm việc rất chăm chỉ vì sự phát triển của
Matsushita, và Matsushita đã bù đắp lại bằng những lợi ích rất thỏa đáng như
trên.
Tuy nhiên, văn
hoá không đứng yên vĩnh viễn. Theo những nhà quan sát, thế hệ sinh sau 1964
thiếu đi sự cam kết với truyền thống văn hóa Nhật Bản như cha mẹ của họ. Họ lớn
lên trong một thế giới giàu hơn, nơi mà họ bị tác động bởi văn hóa phương Tây
nhiều hơn, nơi mà sự thể hiện cá nhân dường như được ủng hộ hơn. Họ không muốn
bị buột chặt vào công ty cả đời. Xu hướng này ngày càng rõ hơn trong năm 1990 khi
mà sự đình trệ kinh tế của Nhật Bản kéo dài. Các công ty của Nhật Bản bị thúc
ép phải thay đổi cách thức kinh doanh truyền thống. Dần dần các công ty gặp khó
khăn phải sa thải các nhân viên lớn tuổi, mong muốn xóa bỏ triệt để chế độ làm
việc suốt đời. Khi những nguời trẻ tuổi nhận thấy điều đó, họ kết luận rằng sự
trung thành với công ty có thể không được đền đáp xứng đáng; và điều đó cho
thấy sự duy trì truyền thống là rất khó khăn.
Matsushita là
công ty cuối cùng quay lưng lại với các truyền thống của Nhật Bản. Trong năm
1998 sau nhiều năm khó khăn, Matsushita buộc phải điều chỉnh những thông lệ
truyền thống của nó. Việc điều chỉnh được khởi xướng từ một nhóm những nhà quản
lý rất có kinh nghiệm trong các hoạt động của Matsushita ở nước ngoài, mà dẫn đầu
là Kunio Nakamura, người sau này trở thành Tổng giám đốc của Matsushita vào năm
2000.
Đầu tiên,
Matsushita thay đổi cơ chế thưởng đối với 11.000 nhà quản lý của công ty. Trong
quá khứ, hệ thống trả thưởng hai lần trong năm dựa hoàn toàn trên thâm niên, nhưng
bây giờ ở Matsushita việc trả thưởng phải dựa trên kết quả công việc. Trong năm
1999, Matsushita tuyên bố quá trình trả thưởng sẽ được thực hiện một cách minh
bạch; các nhà quản lý phải chứng minh kết quả công việc của mình và mức thưởng
mà mình xứng đáng được hưởng. Bằng cách đó, Matsushita đã thực hiện một cuộc
cách mạng trong việc quản trị nguồn nhân lực.
Cùng lúc đó
Matsushita cũng nhắm vào hệ thống làm việc suốt đời và những quyền lợi có liên
quan. Trong hệ thống mới, những người mới được tuyển dụng có ba lựa chọn. Lựa
chọn thứ nhất, họ có thể ký hợp đồng với các điều khoản truyền thống như là trợ
cấp nhà, miễn phí các sự kiện do công ty tổ chức, sử dụng các dịch vụ giá rẻ do
công ty trợ cấp. Họ cũng có thể nhận những khoản lương hưu bằng hai tháng
lương. Lựa chọn thứ hai, họ không được hưởng lương hưu được cam kết, nhưng bù
lại họ được hưởng lương khởi điểm cao hơn và giữ lại những quyền lợi khác như
chi phí nhà thấp. Lựa chọn thứ ba, họ sẽ từ bỏ tiền thưởng hưu và các dịch vụ
được trợ cấp, bù lại họ sẽ nhận được tiền lương cao hơn tiền lương trong lựa
chọn thứ hai. Trong hai năm đầu tiên, số nhân viên mới chọn cách thứ ba chỉ
chiếm khoảng 3%, điều đó cho thấy rằng sự ao ước về mối quan hệ gia trưởng
truyền thống vẫn có còn ảnh hưởng rất lớn ở Nhật. Tuy nhiên số người chọn hình
thức thu nhập thứ hai đã là 41%.
Cuộc cách mạng về
quản trị nhân sự của Matsushita diễn ra sâu rộng hơn. Cụ thể, khi công ty
chuyển sang những ngành công nghiệp mới như là phần mềm, kỹ thuật và công nghệ
viễn thông mạng, công ty bắt đầu thấy được hiệu quả của việc dân chủ hoá trong
các nhân viên, nó khuyến khích tính cá nhân, sáng kiến, sự mạo hiểm, dám chịu
rủi ro trong giới nhân viên trẻ. Tuy nhiên, những sự thay đổi như vậy rất dễ để
nói, nhưng việc thực hiện rất khó khăn. Matsushita gặp nhiều khó khăn trong
việc hủy bỏ các cam kết về chế độ làm việc suốt đời đối với các nhân viên lâu
năm được thuê mướn theo cách thức truyền thống. Điều này một lần nữa được nhấn
mạnh vào đầu năm 2001 khi mà công ty còn gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh.
Matsushita đã tuyên bố sẽ đóng cửa 30 nhà máy ở Nhật Bản, cắt giảm 13.000 lao
động trong đó có 1.000 lao động quản lý, và bán đi một lượng lớn tài sản trong
ba năm tới. Trong khi đó là cơ hội để kết liễu hệ thống thuê mướn nhân công
suốt đời (đây là lần đầu tiên trong lịch sử công ty sa thải nhân công) tuy
nhiên công ty vẫn thông báo rằng các bộ phận quản lý không nhất thiết phải sa
thải mà thay vào đó họ sẽ được chuyển sang những bộ phận có mức tăng trưởng cao
hơn như dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Với đội ngũ nhân
viên quản lý đông đảo (hậu quả của hệ thống tuyển dụng truyền thống), một số
người hoài nghi khả năng của công ty trong việc thực hiện cuộc cách mạng trong
quản lý nhân sự. Khi mà tăng trưởng của công ty vẫn thấp, Matsushita phải cắt giảm
việc thuê mướn thêm lao động, nhưng vẫn duy trì cam kết của họ với những lao
động lâu năm, thì độ tuổi trung bình của lực lượng lao động dần dần tăng lên.
Trong năm 1960 nó vào khoảng 25; đầu những năm 2000 độ tuổi trung bình đã là
35, xu hướng này đi ngược lại với nỗ lực cách mạng hóa đội ngũ lao động cũ
Matsushita bởi vì chắc chắn rằng những người có nhiều lợi ích từ hệ thống cũ
không dễ dàng gì bỏ cái cũ và đi theo cái mới. Vào năm 2004, công việc kinh
doanh của Matsushita bắt đầu có sự tiến bộ. Sau những khoản lỗ nghiêm trọng
trong năm 2002, công ty bắt đầu hoà vốn vào 2003, và bắt đầu có lãi lại vào năm
2004. Những yếu tố như việc tiêu thụ mạnh các thiết bị DVD chắc chắn thúc đẩy
sự tăng trưởng, nhưng những thay đổi về văn hoá và tổ chức cũng góp phần rất
lớn vào sự thành công đó. Nó giúp cho công ty có thể khai thác được những cơ
hội tăng trưởng mới trong tương lai.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét