Một thập kỷ thay đổi tổ chức tại Unilever
Unilever là một
trong những tập đoàn đa quốc gia lâu đời nhất trên thế giới với các dòng sản
phẩm phong phú thuộc ngành hàng thực phẩm, giặt tẩy và chăm sóc cá nhân. Doanh
thu hàng năm của công ty vượt trên 50 tỷ USD, và các nhãn hàng có mặt ở hầu hết
các quốc gia. Sản phẩm bột giặt, chiếm khoảng 25% tổng doanh thu của công ty,
bao gồm những thương hiệu nổi tiếng như Omo, được bán tại hơn 50 quốc gia. Các
sản phẩm chăm sóc cá nhân, chiếm khoảng 15% tổng doanh thu, gồm có mỹ phẩm
Calvin Klein, kem đánh răng Pepsodent, sản phẩm chăm sóc tóc Faberge, và kem
dưỡng da Vaseline. Hàng thực phẩm, chiếm 60% tổng doanh thu, gồm các sản phẩm
thế mạnh như bơ ăn (chiếm hơn 70% thị phần ở hầu hết các nước), trà, kem, thực
phẩm đông lạnh, và bánh.
Trước đây,
Unilever được tổ chức theo cấu trúc phân quyền. Mỗi công ty con ở mỗi thị
trường đảm nhiệm luôn việc sản xuất, tiếp thị, kinh doanh, và phân phối sản
phẩm tại thị trường đó. Chẳng hạn, tại Tây Âu, vào đầu thập niên 1990, công ty
có 17 công ty con, mỗi công ty con tập trung phát triển một thị trường quốc gia
khác nhau. Mỗi công ty là một trung tâm lợi nhuận và tự chịu trách nhiệm về
thành tích hoạt động kinh doanh của mình. Mô hình phân quyền được xem như một
nguồn sức mạnh. Cấu trúc này cho phép các nhà quản lý tung ra những sản phẩm và
chiến lược tiếp thị phù hợp với thị hiếu và sở thích địa phương, điều chỉnh
chiến lược bán hàng và phân phối phù hợp với hệ thống bán lẻ tại mỗi thị
trường. Để thúc đẩy quá trình địa phương hóa, Unilever tuyển dụng những nhà
quản lý bản địa để điều hành các chi nhánh địa phương; công ty con ở Mỹ (Lever
Brothers) được quản lý bởi người Mỹ, công ty con ở Ấn Độ được quản lý bởi người
Ấn Độ…
Đến giữa thập
niên 1990, cấu trúc phân quyền ngày càng không phù hợp với môi trường cạnh
tranh đang thay đổi nhanh chóng. Các đối thủ cạnh tranh toàn cầu của Unilever
gồm Nestlé của Thụy Sĩ và Proter & Gamble của Mỹ, đang thành công hơn
Unilever ở một số điểm: xây dựng những thương hiệu toàn cầu, giảm chi phí tổ
chức nhờ tập trung các hoạt động sản xuất tại một số địa điểm, và tung ra sản
phẩm cùng lúc tại một số thị trường quốc gia. Cấu trúc phân quyền của Unilever
gây khó khăn cho việc xây dựng những thương hiệu toàn cầu hay khu vực. Nó dẫn
đến nhiều sự trùng lắp, đặc biệt trong sản xuất, không có được hiệu quả kinh tế
theo quy mô và một cấu trúc chi phí cao. Unilever cũng nhận thấy mình đang tụt
lại sau các đối thủ trong cuộc chạy đua tung những sản phẩm mới ra thị trường.
Chẳng hạn, ở châu Âu, trong khi Nestlé và Procter & Gamble đã tung sản phẩm
ra toàn thị trường châu Âu, Unilever phải mất 4 đến 5 năm để thuyết phục 17
công ty con của mình ở châu Âu chấp nhận dòng sản phẩm mới.
Unilever bắt đầu
thay đổi toàn bộ vào giữa thập niên 1990. Năm 1996, công ty áp dụng cấu trúc
khu vực địa lý. Trong đó mỗi khu vực bao gồm các nhóm sản phẩm riêng biệt.
Chẳng hạn, khu vực châu Âu bao gồm các nhóm sản phẩm bột giặt, nhóm sản phẩm
kem, nhóm thực phẩm đông lạnh… Mỗi khu vực và nhóm sản phẩm phối hợp hoạt động
của các công ty con ở các quốc gia trong vùng để giảm chi phí kinh doanh và đẩy
nhanh tốc độ phát triển, tung ra sản phẩm mới.
Chẳng hạn, Lever châu Âu được thành lập để hợp nhất hoạt
động của nhóm sản phẩm bột giặt, 17 công ty con ở châu Âu báo cáo trực tiếp cho
Lever châu Âu. Lever châu Âu tập trung sản xuất bột giặt tại một vài địa điểm
chủ chốt ở châu Âu để cắt giảm chi phí và đẩy nhanh tốc độ ra mắt sản phẩm mới.
Để làm được điều này đòi hỏi sự đánh đổi, 17 công ty con ở Châu Âu đã hi sinh
sự tự do trong việc quản lý thị trường của riêng mình để đổi lấy việc phát
triển một chiến lược hợp nhất toàn châu Âu. Số lượng nhà máy sản xuất xà bông ở
Châu Âu được cắt giảm từ 10 xuống còn 2, và một số sản phẩm mới chỉ được sản
xuất tại một địa điểm. Kích thước sản phẩm và bao bì đóng gói được đồng nhất để
cắt giảm chi phí thu mua và phù hợp với việc quảng cáo toàn châu Âu. Bằng những
bước đi này, Unilever ước tính đã tiết kiệm được 400 triệu USD/năm trong hoạt
động kinh doanh sản phẩm bột giặt của mình tại châu Âu.
Đến
năm 2000, Unilever vẫn thấy mình tăng trưởng chậm hơn các đối thủ cạnh tranh,
vì vậy công ty lại thực hiện tái cấu trúc. Lần này, mục tiêu là cắt bớt số
lượng nhãn hàng mà Unilever đang kinh doanh từ 1.600 xuống còn 400 trên qui mô
toàn cầu hoặc khu vực. Để hỗ trợ cho chiến lược mới này, công ty lên kế hoạch
giảm số lượng nhà máy từ 380 xuống còn 280 vào năm 2004. Công ty cũng thiết lập
một cơ cấu tổ chức mới chỉ dựa trên hai nhóm sản phẩm toàn cầu là nhóm hàng
thực phẩm và nhóm hàng chăm sóc cá nhân và gia đình. Mỗi nhóm sản phẩm được
chia thành các khu vực địa lý tập trung phát triển, sản xuất và tiếp thị cho
nhóm sản phẩm đó. Chẳng hạn, Unilever châu Âu nhóm hàng thực phẩm, có trụ sở
chính tại Rotterdam, tập trung kinh doanh các nhãn hàng thực phẩm ở thị trường
Tây và Đông Âu, tương tự như vậy cho Unilever châu Âu nhóm hàng chăm sóc cá
nhân và gia đình. Và giữa các khu vực trong cùng nhóm sản phẩm vẫn có sự khác
biệt, nhiều nhãn hàng thực phẩm của Unilever ở khu vực Bắc Mỹ khác biệt so với
ở khu vực châu Âu.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét