Diebold
Với bề dày lịch sử trên 144 năm, Diebold không lo lắng
nhiều về việc kinh doanh quốc tế. Là một công ty hàng đầu về két sắt của ngân
hàng, sau đó là các máy ATM, công ty đặt bản doanh tại Ohio và tập trung vào
các thể chế tài chính tại Mỹ. Cho đến thập niên 1970 và 1980, sự tăng trưởng
của công ty được thúc đẩy bởi sự chấp nhận nhanh chóng máy ATM tại Mỹ. Diebold
bán máy ATM đầu tiên ra thị trường nước ngoài vào thập niên 1980. Thận trọng
trong bước đi, Diebold đã ký một hợp đồng phân phối với công ty điện tử đa quốc
gia của Hà Lan là Philips. Theo hợp đồng này, Diebold sản xuất các máy ATM tại
Mỹ và xuất khẩu chúng đến những khách hàng ở nước ngoài sau khi Philips thực
hiện việc giao dịch bán máy.
Năm 1990, Diebold rút khỏi hợp đồng với Philips và thành
lập một liên doanh với IBM, gọi là Interbold, để thực hiện công việc R&D,
và phân phối máy ATM trên toàn thế giới. Diebold sở hữu 70% cổ phần trong liên
doanh, cung cấp máy ATM, trong khi IBM cung cấp các chức năng tiếp thị toàn
cầu, bán máy, và dịch vụ. Việc Diebold liên doanh tốt hơn là xây dựng một hệ
thống phân phối quốc tế cho riêng mình bởi vì Diebold cảm thấy chưa đủ nguồn
lực để thiết lập một sự hiện diện trên thị trường quốc tế. Về thực chất,
Diebold xuất khẩu máy ATM thông qua mạng lưới phân phối của IBM. Việc Diebold
chuyển đối tác phân phối từ Philips sang IBM bởi Diebold tin rằng IBM sẽ theo
đuổi việc bán máy ATM quyết liệt hơn.
Đến năm 1997, doanh thu nước ngoài của Diebold tăng lên đến
hơn 20% tổng doanh thu. Trong khi doanh thu tại Mỹ đang giảm sút do thị trường
trong nước bão hoà, Diebold tìm thấy sự tăng trưởng nhanh chóng về nhu cầu máy
ATM ở một phạm vi rộng lớn của các thị trường đang và đã phát triển. Đặc biệt
các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, và Brazil với tầng lớp trung lưu đang
bắt đầu sử dụng hệ thống ngân hàng với số lượng lớn và nhu cầu máy ATM tăng cao
đột ngột. Vào giai đoạn này, Diebold quyết định mạo hiểm và thiết lập hệ thống
phân phối ở nước ngoài cho riêng mình.
Ở bước đi đầu tiên, Diebold mua lại 30% cổ phần của IBM
trong liên doanh Interbold. Một phần việc mua lại này là do Diebold không hài
lòng với những nỗ lực bán máy của IBM, vì người bán máy là nhân viên của IBM,
trong khi máy ATM của Diebold chỉ là một sản phẩm trong danh mục sản phẩm của
họ và nó không nhất thiết phải được ưu tiên hàng đầu. Diebold cảm thấy họ có
thể chiếm được một thị phần lớn hơn nếu nắm quyền điều khiển trực tiếp toàn bộ
hệ thống phân phối. Diebold cũng cảm thấy rằng trong suốt 15 năm qua, công ty
đã tích lũy đủ kinh nghiệm kinh doanh quốc tế bảo đảm cho việc kinh doanh một
mình. Các nhà quản trị của Diebold quyết định rằng ngoài hệ thống phân phối tại
địa phương, họ cần hiện diện về mặt sản xuất tại nhiều vùng vì sự khác biệt của
các máy ATM theo những yêu cầu sử dụng khác nhau. Chẳng hạn, đa phần ở châu Á,
nhiều khách hàng trả tiền các hoá đơn của họ bằng tiền mặt qua các máy ATM. Để
chiếm lấy thị phần này, Diebold phải thiết kế các máy ATM có thể chấp nhận và
đếm những cọc tiền lên đến 100 tờ, và loại ra những tờ tiền giả. Ở những quốc
gia khác, các máy ATM thực hiện đa chức năng từ việc sắp xếp bản khai báo lợi
tức để đóng thuế đến việc phân phối các vé xem hát. Diebold tin rằng việc đặt
các cơ sở sản xuất gần với các thị trường then chốt sẽ dễ dàng đáp ứng những yêu
cầu khác biệt của địa phương và làm gia tăng doanh số.
Để có những bước nhảy vọt trong kinh doanh quốc tế,
Diebold tiến hành hàng loạt hoạt động mua lại các công ty ở nước ngoài. Năm
1999, Diebold mua lại công ty Procomp Amazonia Industria Electronica của
Brazil, một công ty điện tử ở châu Mỹ Latinh với doanh số 400 triệu USD và tham
gia sâu rộng trong lĩnh vực máy ATM. Kế tiếp, Diebold mua lại công ty Groupe
Bull của Pháp và công ty Getronics của Hà Lan, đây là hai công ty chính trên
thị trường châu Âu với doanh số 160 triệu USD. Ở Trung Quốc, do chưa có một đối
thủ cạnh tranh đáng kể nào để mua lại, Diebold tiến hành thiết lập một liên
doanh sản xuất và phân phối mà Diebold nắm giữ quyền sở hữu chính. Đến năm
2002, Diebold đã có những dây chuyền sản xuất ở châu Á, châu Âu, và châu Mỹ
Latinh cũng như ở Mỹ và có mạng lưới hoạt động phân phối ở 80 quốc gia, trong
đó đa số là do Diebold làm chủ hoàn toàn. Doanh thu quốc tế của Diebold chiếm
đến 41% trong tổng doanh số 2,11 tỷ USD của công ty trong năm 2003, và được dự
đoán sẽ tiếp tục tăng ở mức hai con số.
Việc mua lại công ty Procomp Amazonia Industria
Electronica của Brazil
cũng giúp cho Diebold bước vào một công việc kinh doanh mới có lãi và nhiều
tiềm năng. Ngoài việc kinh doanh máy ATM, Procomp kinh doanh máy bỏ phiếu điện
tử. Vào năm 1999, Procomp giành được một hợp đồng 105 triệu USD, lớn nhất trong
lịch sử của Diebold, để cung cấp cho các trạm bỏ phiếu của Brazil với các thiết
bị bỏ phiếu điện tử. Các nhà quản trị của Diebold nhận ra rằng đây có thể sẽ
trở thành một lĩnh vực kinh doanh toàn cầu rộng lớn. Năm 2001, Diebold mở rộng
hoạt động kinh doanh của mình vào lĩnh vực này bằng cách mua lại công ty Global
Election Systems, một công ty của Mỹ chuyên cung cấp các công nghệ bầu cử điện
tử cho các tiểu bang và các quốc gia muốn nâng cấp kỹ thuật bầu cử truyền
thống. Đến năm 2003, Diebold là người đi đầu trong thị trường toàn cầu về máy
bầu cử điện tử mới này với doanh thu trên 100 triệu USD.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét