Kinh tế thị trường là gì? (5): Người lao động trong nền kinh tế thị trường
Ở hai nền kinh tế thị trường và kinh tế chỉ huy mà có mức độ công nghiệp hóa như nhau thì dòng người lao động trong bất kỳ ngày làm việc nào cũng rất giống nhau. Nhưng một lần nữa, lại có những sự khác biệt ẩn chứa sau cơ chế hoạt động của hai nền kinh tế này và chúng có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều so với sự giống nhau bên ngoài.
Lựa chọn
Lấy ví dụ về gia đình đã nói ở trên đi đến siêu thị và mua cam – cùng với một số táo vì giá cam cao hơn so với giá họ dự tính. Sau khi ăn tối, Robert, người chúng ta muốn nói ở đây, là một thợ máy, và Maria là giáo viên tiểu học, bàn về những cơ hội mới trong nghề nghiệp của họ. Điều này không phải là một việc thường xảy ra; nhưng tại một số thời điểm trong cuộc đời của mình, người lao động trong nền kinh tế thị trường phải có những quyết định quan trọng đối với nghề nghiệp của mình. Tại sao? Vì không có ai khác sẽ đưa ra các quyết định như vậy thay cho họ, vì không còn các tổ chức kế hoạch trung ương sẽ quyết định ai sẽ làm việc ở đâu và với tiền lương là bao nhiêu.
Robert lo rằng ít có các cơ hội thăng tiến trong công việc làm thợ máy và anh đang xem xét việc theo học một khóa lập trình máy tính để có thể có nhiều cơ hội hơn. Còn Maria thì thấy có cơ hội để có một vị trí quản lý hành chính tốt hơn ở trường.
Hàng năm, hàng ngàn người lao động phải đối mặt với các quyết định kinh tế tương tự. Việc Robert và Maria sẽ quyết định về các vấn đề này như thế nào còn phụ thuộc vào hàng loạt các nhân tố, cả các nhân tố cá nhân và kinh tế. Là một cặp vợ chồng trung lưu đã có con, các quyết định của họ sẽ rất khác so với một người còn độc thân vừa tốt nghiệp phổ thông trung học hoặc đại học, hoặc đối với những người sắp về hưu.
Đối với Maria, vấn đề đặt ra là liệu cô có muốn đổi những niềm vui trong công việc giảng dạy lấy một công việc hành chính có lương cao hơn nhưng sức ép cũng lớn hơn và làm việc nhiều giờ hơn của một chức vụ quản lý dành cho nhân viên cao cấp hơn hay không.
Robert thì đối mặt với việc liệu có nên đi học đại học hoặc khóa đào tạo nào khác hay không với hy vọng rằng các khả năng chuyên môn mới sẽ mang đến lương cao hơn và cơ hội thăng tiến lớn hơn. Đối với Robert, về góc độ kinh tế việc đây có phải là sự đầu tư tốt hơn hay không còn phụ thuộc vào một loạt nhân tố sau:
- Hiện tại lương của Robert là bao nhiêu, nếu không có học và đào tạo thêm? Lương hiện tại càng cao thì khoản tiền anh ta sẽ mất đi càng lớn khi anh ta bỏ công việc thợ máy của mình để hoàn thành chương trình đại học hoặc đào tạo khác
. - Mức học phí và các chi phí khác để tham gia khóa học đại học hoặc các khóa học khác về máy tính là bao nhiêu? Học phí càng cao, phần còn lại từ cuộc đầu tư cá nhân này càng thấp và càng có ít người, giống như Robert, tham gia vào những khóa học đó
. - Sau bao lâu thì khóa học hoặc khóa đào tạo liên quan đến công việc triển vọng đó mới có tác dụng? Robert có thể thấy một khóa học sáu tháng sẽ có có tác dụng hơn một chương trình đại học nghiêm túc.
- Tuổi của Robert cũng là một vấn đề. Những người lao động trẻ hơn tất nhiên là có nhiều thời gian hơn để kiếm lại số tiền lương mà họ mất cũng như các chi phí học tập khác họ phải chịu trong lúc bỏ việc đi học.
- Thu nhập của Robert sẽ là bao nhiêu sau khóa học máy tính? Sự chênh lệch càng lớn giữa khoản lương này với thu nhập hiện có sẽ càng làm cho anh ta cân nhắc một cách nghiêm túc việc tham gia chương trình học đó.
- Khả năng tìm việc của Robert trong lĩnh vực này sẽ như thế nào sau khi tốt nghiệp?
Các yếu tố này được cân nhắc một cách khác nhau ở từng người, điều đó lý giải tại sao không phải tất cả mọi người đều học đại học hoặc tham dự các khóa học khác, ít nhất là dưới khía cạnh của việc đầu tư tài chính cho nghề nghiệp của họ. Đối với một số người đơn giản là chi phí có thể quá cao so với lợi ích trông đợi. Đối với một số khác – trong đó có rất nhiều sinh viên có triển vọng nhưng chưa có việc làm tốt – học đại học hoặc các chương trình học khác luôn luôn là sự đầu tư “kinh doanh” tốt.
Trong trường hợp của Robert và Maria, các quyết định này phụ thuộc vào nhiều điều khác hơn là chỉ cân nhắc về tài chính. Nhưng cũng giống như các công ty xem xét việc đầu tư vào các nhà máy và thiết bị mới, người lao động trong nền kinh tế thị trường phải chịu chi phí và rủi ro trong việc học thêm. Và, thực ra thì một số khoản đầu tư là chẳng đáng làm vì không phải tất cả mọi người học đại học đều thành công ở trường, hoặc ở thị trường lao động sau khi họ tốt nghiệp. Đối với rất nhiều người, được trả lương thấp hơn nhưng có công việc đảm bảo có thể hấp dẫn hơn nhiều, mang lại nhiều thời gian và cơ hội quý giá để họ dành cho gia đình hoặc cho các mục đích cá nhân hoặc chuyên môn khác. Tuy nhiên, trong mấy thập kỷ vừa qua, đối với phần lớn người lao động trong nền kinh tế thị trường, các rủi ro khi quyết định học và đào tạo thêm là đáng chấp nhận, và càng trở nên có giá trị trong những năm gần đây khi nền kinh tế hiện đại ngày càng mang tính chuyên môn về công nghệ và phức tạp hơn.
Người lao động và người sử dụng lao động
Ví dụ của Robert và Maria, cũng như của hàng triệu người lao động khác giống họ, đã chỉ ra một sự thật khác về nền kinh tế thị trường. Không có một tổ chức kế hoạch trung ương, người lao động và người sử dụng lao động tự xác định quan hệ của mình thông qua hàng loạt các quyết định độc lập. Điều này không có nghĩa là họ luôn luôn thỏa thuận bình đẳng hoặc người lao động luôn hài lòng với công việc và mức lương của họ. Nhưng nó có nghĩa là người lao động và người sử dụng lao động có sự tự do rất lớn trong việc quyết định bắt đầu, thay đổi hoặc chấm dứt mối quan hệ này. Và điều đó làm nảy sinh một câu hỏi cơ bản: điều gì đã làm cho người lao động và công ty cùng tồn tại trong nền kinh tế thị trường, hoặc làm thay đổi quan hệ mối quan hệ của họ?
Trường hợp của Robert và Maria đã chứng tỏ rằng công việc của người lao động trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc trước tiên và nhiều nhất vào những quan tâm, học vấn và kỹ năng của họ. Mọi người đều tự do theo đuổi bất kỳ nghề nghiệp gì mà họ lựa chọn, nhưng chỉ những người có khả năng đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của công việc mà họ chọn mới được người sử dụng lao động tuyển chọn. Trong các thị trường cạnh tranh, các công ty đơn giản là không thể tiếp tục trả lương cho những người không thể hoặc sẽ không thể làm những công việc mà họ được thuê để làm. Nhưng cũng với quan điểm tương tự, những người lao động có đóng góp nhiều cho việc sản xuất hoặc dịch vụ của một công ty sẽ là những người lao động rất có giá trị và sẽ có rất nhiều công ty muốn tuyển dụng họ.
Để giữ cho người lao động tiếp tục làm việc cho mình, các công ty phải dành những mức lương và điều kiện lao động có thể cạnh tranh với các công ty khác. Sự cạnh tranh giữa những người lao động đi tìm việc làm tốt và các công ty đi tìm người lao động giỏi là một hoạt động không ngừng trong hầu hết các thị trường lao động.
Mức lương mà các công ty trả cho người lao động chủ yếu được xác định bằng năng suất của họ và bằng sự khan hiếm hoặc dư thừa tương đối về người lao động có những kỹ năng đó. Nói chung, những người lao động có thể tạo ra hoặc làm được những thứ mà nhiều người tiêu dùng ưa thích, và nếu chỉ có một số ít những người như vậy, sẽ được hưởng mức lương cao nhất.
Tuy nhiên, có các nhân tố khác ảnh hưởng đến sự khan hiếm tương đối đó. Ví dụ, các điều kiện làm việc không thoải mái hoặc nguy hiểm có thể làm tăng thêm tiền lương cho người lao động vì không có nhiều người sẵn sàng làm những công việc đó. Thợ đào than nói chung kiếm được nhiều hơn so với thư ký văn phòng; thợ xây các tòa nhà chọc trời có thu nhập cao hơn người lao động bình thường làm công việc đào móng cho các tòa nhà đó.
Giáo dục và đào tạo
Những công việc đòi hỏi phải có thêm đào tạo và giáo dục cũng thường được trả lương cao hơn, dù cho các điều kiện khác là như nhau, vì như Robert đã biết, những người lao động này sẽ phải bỏ nhiều năm làm việc để có được các kỹ năng cần thiết hầu mong kiếm được công việc có lương cao hơn – và bởi vì giáo dục tự nó đòi hỏi phải có sự thông minh và lao động chăm chỉ. Các kỹ sư và kiến trúc sư nói chung được trả lương cao trong hầu hết các nền kinh tế thị trường – phần lớn là vì những lý do này.
Đào tạo, giáo dục và mức độ cố gắng đều có ảnh hưởng đến thu nhập nhưng một nhân tố rất quan trọng là nhu cầu của xã hội đối với một kỹ năng hoặc một ngành lao động đặc biệt. Những người thợ sửa ống nước hoặc thợ điện thường đòi mức phí cao hơn thợ mộc hoặc thợ cơ khí ô-tô; nhưng một người thợ mộc giỏi làm nội thất hoặc một thợ cơ khí bậc cao có thể rất được cần đến và thường đòi hỏi mức tiền công cao phản ánh đúng giá trị của những kỹ năng mà họ có.
Vế cung của đẳng thức cũng vận hành theo cách tương tự trong các thị trường lao động. Ví dụ, ở hầu hết các trường đại học tại các nền kinh tế thị trường, các giáo sư triết học và ngôn ngữ nhận được lương thấp hơn các giáo sư dạy kỹ thuật hoặc khoa học tự nhiên trong vài thập kỷ qua đơn giản là vì số lượng những giáo sư như vậy nhiều hơn nhu cầu của xã hội về công việc của họ. Một số lượng lớn những người có đủ tiêu chuẩn để làm công việc nhân viên bán lẻ trong các cửa hàng cũng là một lý do giải thích mức lương của công việc này có xu hướng thấp hơn so với các công việc mà số những người có năng lực thực hiện ít hơn.
Giá cả và tiền công
Vấn đề giáo dục và đào tạo cũng cho thấy những quyết định của người lao động trong thị trường lao động lại một lần nữa chịu ảnh hưởng lớn bởi nhiều loại mức giá, và đặc biệt là mức tiền công. Các mức giá cho nhân công thì lại phụ thuộc vào nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ do người lao động được thuê sản xuất ra. Kết quả là, tiền công trong những công việc khác nhau tăng lên và hạ xuống qua thời gian phần lớn là do những thay đổi về giá cả của những hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ đó. Ví dụ, khi ô-tô thay thế xe ngựa trong nửa đầu của thế kỷ trước, tiền công của thợ đúc móng ngựa và thợ làm yên cương sụt giảm nhiều trong khi tiền công của thợ cơ khí ô-tô lại tăng lên.
Tương tự, chỉ trong vài năm qua, nhu cầu về lao động có bằng đại học đã tăng vọt tại hầu hết các nền kinh tế thị trường, phần lớn là do hầu hết các doanh nghiệp hiện phải sử dụng các công nghệ phức tạp hơn trước đây. Robert bị hấp dẫn bởi máy tính một phần vì anh thấy đó là lĩnh vực đang phát triển với cầu về lao động tương đối cao và tất nhiên là lương cao.
Thương mại quốc tế cũng có thể là một nhân tố quan trọng trong việc quyết định tổng cầu. Các ngành công nghiệp và công ty có thể cạnh tranh thành công và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài thường đem lại nhiều hơn các cơ hội công việc và nghề nghiệp cho người lao động – cũng như hàng hóa nhập khẩu từ những nước này mang lại cho họ, với tư cách là người tiêu dùng, sự lựa chọn lớn hơn về hàng hóa với mức giá cạnh tranh.
Những người lao động đang chuẩn bị cho nghề nghiệp trong các lĩnh vực đang phát triển mạnh sẽ có lợi thế từ sự nhìn xa trông rộng của họ trong khi những người vẫn bám vào các thị trường đang suy giảm (thường sử dụng các kỹ năng truyền thống) có thể phải đối mặt với vấn đề thất nghiệp. Họ sẽ cần được đào tạo, dù bằng tiền của bản thân, của chính phủ hay của người sử dụng lao động. Nhưng điều đó cũng là một phần của cơ chế khuyến khích mạnh có tác dụng định hướng các nguồn lực – cụ thể là nguồn lực lao động – vào việc sản xuất các hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng cần nhất và không vào những lĩnh vực mà không còn nhu cầu.
Sự nhấn mạnh liên tục vào việc sản xuất những gì mà người tiêu dùng cần đã chứng tỏ qua thời gian là lý do căn bản nhất giải thích vì sao lao động và các nguồn lực khác lại tạo ra nhiều của cải vật chất đến vậy trong các nền kinh tế thị trường. Bài học rất rõ ràng: để thịnh vượng, hãy sản xuất những gì mọi người muốn và cần dùng.
THẤT NGHIỆP VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Vào lúc này hay lúc khác, tất cả các nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với vấn đề thất nghiệp, nhưng vấn đề này có thể trở nên đặc biệt gay gắt trong các xã hội đang trải qua thời kỳ quá độ khó khăn từ một nền kinh tế tập trung chịu sự kiểm soát của chính phủ sang một hệ thống thị trường tự do. Mặc dù việc chính phủ dỡ bỏ kiểm soát giá cả đã cho phép cung và cầu – hai động lực chính của tất cả các nền kinh tế thị trường – có thể thực hiện chức năng của chúng mà không bị cản trở, nhưng điều này cũng đồng thời gây ra tình trạng thất nghiệp ngắn hạn.
Do không còn kiểm soát giá cả, chính cầu tiêu dùng chứ không phải sự phân phối của chính phủ sẽ tạo ra tính đa dạng của hàng hóa chào bán. Khi ngọn gió cạnh tranh bắt đầu thổi khắp nền kinh tế, chúng khiến cho các doanh nghiệp không hiệu quả phải đóng cửa hoặc cắt giảm nhân công để có thể tồn tại. Kết quả là thất nghiệp tăng lên do các công ty phải cố gắng để hạn chế chi phí của họ. Do trợ cấp của chính phủ bị cắt giảm nên nhiều doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp lớn của nhà nước vốn thuê rất nhiều nhân công sẽ không thể tồn tại trong một môi trường kinh tế mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thiệt hại về thất nghiệp lại là các lợi ích về tự do giá cả và sự thiết lập quyền sở hữu tài sản và hình thành các doanh nghiệp làm nền tảng kinh tế của xã hội. Các doanh nhân, nhìn thấy các cơ hội kinh doanh mới, đã thuê công nhân và sản xuất các hàng hóa và dịch vụ mới. Các doanh nghiệp trong và ngoài nước sẽ tìm kiếm các cơ hội để đầu tư thu lợi. Không chỉ có số lượng cơ hội việc làm tăng lên, mà khi các doanh nghiệp mới sinh sôi, khiến tính đa dạng của chúng cũng tăng theo, làm nâng cao tính linh hoạt và các lựa chọn việc làm cho người lao động.
Trong nhiều trường hợp, sự khác biệt giữa người lao động và chủ doanh nghiệp có thể không rõ ràng, do một cá nhân học hỏi được các kỹ năng từ một công ty và sau đó tách ra để thành lập công ty riêng của họ để cung cấp các sản phẩm mới, tốt hơn hoặc rẻ hơn trong cùng một lĩnh vực. Tỉ lệ thất nghiệp cũng như tỉ lệ lạm phát ngày càng giảm khi nền kinh tế thị trường linh hoạt và năng động được thiết lập.
Tuy nhiên, thất nghiệp không thể biến mất, thậm chí cả trong các nền kinh tế thị trường đã phát triển thành công. Trong một nền kinh tế thị trường, một số người lao động thường xuyên thay đổi công việc hoặc chờ đợi công việc đầu tiên sau khi gia nhập thị trường lao động. Điều này được gọi là thất nghiệp tạm thời, và xét về nhiều mặt, nó chỉ đơn giản phản ánh tính tự do và linh hoạt của người lao động trong việc tìm kiếm các công việc có lương tốt nhất và đưa lại sự hài lòng nghề nghiệp cao nhất. Thực vậy, nếu người lao động không tự do lưu chuyển theo cách này – dẫn đến việc tạo ra một mức thất nghiệp nhất định – thì cả tính cạnh tranh và sản lượng đều sẽ giảm đi.
Do người lao động thất nghiệp tạm thời thường không phải chịu tình trạng mất việc lâu, và do họ tự nguyện chọn lựa cách thay đổi công việc hoặc tham gia đào tạo, nên thất nghiệp tạm thời nhìn chung không phải là một vấn đề nghiêm trọng đối với một nền kinh tế thị trường. Trên thực tế, tại hầu hết các quốc gia, một tỉ lệ lao động nhất định trong một lực lượng lao động năng động sẽ bị thất nghiệp tạm thời vào bất cứ thời điểm nào, và các nhà kinh tế học nhìn chung xếp các nền kinh tế như vậy vào loại “đầy đủ việc làm”.
Thật không may là có hai loại thất nghiệp khác không dễ chịu như vậy: thất nghiệp chu kỳ và thất nghiệp cơ cấu. Thất nghiệp chu kỳ xuất hiện khi mức chi tiêu và sản lượng trong nền kinh tế giảm sút và các quốc gia bước vào một thời kỳ đình trệ hoặc khủng hoảng. Trên thực tế, mức thất nghiệp cao là một trong những thước đo chính cho thấy tính nghiêm trọng của sự suy sụp kinh tế. Ví dụ, khi cuộc Đại Khủng hoảng ở trong tình trạng tồi tệ nhất thì có 25% lực lượng lao động ở châu Âu và Hoa Kỳ bị thất nghiệp. Đây là một dạng thất nghiệp sẽ được giải quyết bằng các chính sách tài khóa và tiền tệ quốc gia được thiết kế đặc biệt. (Xem “Chính phủ trong một nền kinh tế thị trường”).
Thất nghiệp cơ cấu ảnh hưởng đến những công nhân không có học vấn, không được đào tạo hay không có kinh nghiệm nghề nghiệp cần thiết để duy trì công việc trong nền kinh tế ngày nay. Ví dụ, nhiều công việc đòi hỏi kỹ năng cao hoặc khả năng học hỏi nhanh chóng các qui trình và các kỹ thuật mới từ các sổ tay kỹ thuật và các khóa đào tạo ngắn hạn. Tương tự, các cơ hội nghề nghiệp trong thời đại thông tin cũng đòi hỏi một mức độ học vấn và chuyên môn nhất định về giao tiếp, ngôn ngữ, khoa học và quản lý.
Mặc dù thất nghiệp cơ cấu thường chỉ ảnh hưởng đến một tỉ lệ nhỏ công nhân trong một nền kinh tế vào một thời điểm nhất định, nhưng việc giải quyết vấn đề này có thể rất chậm và tốn kém – và đó là một lý do nữa để giải thích vì sao chương trình giáo dục quốc gia lại quan trọng đối với tăng trưởng và cơ hội kinh tế.
Tổn thất do thất nghiệp gây ra cho xã hội thường được tính bằng sản lượng hàng hóa và dịch vụ không được sản xuất ra khi một số lượng người lao động không có việc làm. Đó là một thiệt hại lớn do mất mát về sản lượng, thường là mất mát vĩnh viễn và không thể bù đắp được. Tuy nhiên thiệt hại cho cá nhân do thất nghiệp thậm chí có thể nghiêm trọng hơn và gây thiệt hại cho người lao động và gia đình họ: mất thu nhập và các khoản tiết kiệm là điều chắn chắn, và trong một số trường hợp họ còn mất cả ô-tô và nhà ở, dẫn đến sự lo lắng và suy nhược về tinh thần, mâu thuẫn gia đình và đôi khi thậm chí còn phạm tội. Do vậy, chính phủ trong tất cả các nền kinh tế thị trường thực sự thường có trợ cấp thất nghiệp cho những người lao động thất nghiệp trong một thời gian, cũng như nhiều chương trình đào tạo việc làm khác.
Mặc dù đó là những vấn đề nghiêm trọng không thể phủ nhận, nhưng sẽ là sai lầm nếu nghĩ rằng thất nghiệp là một vấn đề khiến hầu hết người lao động thường xuyên lo lắng trong nền kinh tế thị trường. Thực tế, kể từ những năm 1930, hàng năm phần lớn số người thất nghiệp ở các quốc gia như Hoa Kỳ là thất nghiệp tạm thời chứ không phải là thất nghiệp chu kỳ hay cơ cấu. Và hầu hết người thất nghiệp đều không phải chịu đựng tình trạng này lâu dài.
Ví dụ, ở Hoa Kỳ, mặc dù có những khó khăn về kinh tế gần đây nhưng chỉ có một tỉ lệ nhỏ người tạm nghỉ việc được báo cáo là không có công việc trong thời gian hơn một năm. Trong thị trường lao động cạnh tranh, những công nhân tạm nghỉ việc có các cơ hội việc làm khác hoặc có thể theo đuổi những khóa đào tạo bổ sung. Trên thực tế, một nghiên cứu gần đây cho thấy có 69% số công nhân Mỹ tìm được việc làm mới cho rằng học vấn hoặc các khóa dạy nghề rất hữu ích đối với họ. Nhiều công ty trong các nền kinh tế thị trường cố gắng giữ người lao động của họ thậm chí ngay cả khi sản lượng và doanh số đạt thấp, bởi vì họ không muốn mất công nhân cho các công ty cạnh tranh khác hoặc phải đào tạo những công nhân mới khi nhu cầu lại tiếp tục tăng lên.
(Theo maxreading)
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét