Lý thuyết về động lực và tạo động lực làm việc cho người lao động
Động lực và các yếu tố tạo động lực.
1. Các khái niệm về động lực và tạo động lực.
a: Động lực trong lao động.
Khái niệm
Trong giai đoan hiện nay nguồn nhân lực của tổ chức đóng vai trò hết sức
quan trọng, đó là nhân tố quyết định nên sự thành bại trong kinh doanh
của tổ chức. Vấn đề tạo động lực trong lao động là một trong những nội
dung quan trọng của công tác quản trị nhân sự trong doanh nghiệp, nó
thúc đẩy người lao động hăng say làm viậc nâng cao nắng suất lao động.
Có nhiều những quan niệm khác nhau về tạo động lực trong lao động nhưng đều có những điểm chung cơ bản nhất.
Theo giáo trình QTNL của ThS.Nguyễn Vân Điềm – PGS.TS Nguyễn Ngọc Quân
“Động lực lao động là sự khao khát, tự nguyện của người lao động để tăng
cường nỗ lực nhằm hướng tới một mục tiêu, kết quả nao đó”
Theo giáo trình hành vi tổ chức của TS Bùi Anh Tuấn “Động lực lao động
là những nhân tố bên trong kích thích con người tích cực làm việc trong
điều kiện cho phép tạo ra năng suất, hiệu quả cao. Biểu hiện của động
lực là sự sẵn sàng, nỗ lưc, say mê làm việc nhằm đạt được mục tiêu của
tổ chức cũng như bản thân người lao động”.
Suy cho cùng động lực trong lao động là sự nỗ lực, cố gắng từ chính bản
thân mỗi người lao động mà ra. Như vậy mục tiêu của các nhà quản lý là
phải làm sao tao ra được động lực để người lao động có thể làm việc đạt
hiệu quả cao nhất phục vụ cho tổ chức.
b: Bản chất của động lực lao động.
Từ những quan điểm về động lực trong lao động ở trên ta nhận thấy được động lực lao động có những bản chất sau.
Động lực lao động được thể hiện thông qua những công việc cụ thể mà mỗi
người lao động đang đảm nhiệm và trong thai độ của họ đối với tổ chức.
điều này có nghĩa không có động lực lao động chung cho mọi lao động. Mỗi
người lao động đảm nhiệm những công việc khác nhau có thể có những động
lực khác nhau để làm việc tích cực hơn. Động lực lao động được gắn liền
với một công việc, một tổ chức và một môi trường làm việc cụ thể.
Động lực lao động không hoàn toàn phụ thuộc vào những đặc điểm tính cách
cá nhân nó có thể thay đổi thường xuyên phụ thuộc vào các yếu tố khách
quan trong công việc. Tại thời điểm này một lao động có thể có động lực
làm việc rất cao nhưng vào một thời điểm khác động lực lao động chưa
chắc đã còn trong họ.
Động lực lao động mang tính tự nguyện phụ thuộc chính vao bản thân người
lao động, người lao động thường chủ động làm việc hăng say khi họ không
cảm thấy có một sức ép hay áp lực nào trong công việc. Khi được làm
việc một cách chủ động tự nguyện thì họ có thể đạt được năng suất lao
động tốt nhất.
Động lực lao động đóng vai trò quan trọng trong sự tăng năng suất lao
động khi các điều kiện đầu vào khác không đổi. Động lực lao động như một
sức mạnh vô hình từ bên trong con người thúc đẩy họ lao động hăng say
hơn. Tuy nhiên động lực lao động chỉ là nguồn gốc để tăng năng suất lao
dộng chứ không phải là điều kiện để tăng năng suất lao động bởi vì điều
này còn phụ thuộc vào trình độ, kỹ năng của người lao động, vào trình độ
khoa học công nghệ của dây chuyền sản xuất.
Tạo động lực trong lao động.
Để có được động lực cho người lao động làm việc thì phải tìm cách tạo ra
được động lực đó. Như vậy “Tạo động lực trong lao động là hệ thống các
chính sách, các biện pháp các thủ thuật quản lý tác động đến người lao
động nhằm làm cho người lao động có được động lực để làm việc”.
Để có thể tạo được động lực cho người lao động cần phải tìm hiểu được
người lao động làm việc nhằm đạt được mục tiêu gì từ đó thúc đảy động cơ
lao động của họ tạo động lực cho lao động.
c: Hệ thống các mục tiêu chính của người lao động
Mục tiêu thu nhập đây là mục tiêu quan trọng nhất khiến người lao động
làm việc bởi vì thu nhập giúp người lao động trang trải cuộc sống của
bản thân họ và gia đình, đảm bảo cho sự sống và phát triển.
Mục tiêu phát triển cá nhân: đây là mục tiêu ma người lao động mong muốn
tự lam hoàn thiện mình thông qua các hoạt động đào tạo, phát triển, các
hoạt động văn hóa xã hội. Mục tiêu này được nâng cao, chú trọng hơn khi
người lao động đã có đủ thu nhập để đảm bảo cuộc sống.
Mục tiêu thỏa mãn các hoạt động xã hội là nhu cầu được tham gia vao các
hoạt động xã hội để tự khẳng định mình. Khi hai mục tiêu trên đã được
đáp ứng nhu cầu thỏa mãn các hoạt động xã hội được người lao động chú
trong quan tam hơn.
Như vậy tạo động lực lao động chính là sử dụng những biện pháp kích
thích người lao động làm việc bằng cách tạo cho họ cơ hội thực hiện được
những mục tiêu của mình.
2. Các yếu tố tạo động lực trong lao động
a: Các yêu tố thuộc về bản thân người lao động.
- Hệ thống nhu cầu của người lao động.
Nhu cầu về vật chất: là những nhu cầu cơ bản nhất đảm bảo cuộc
sống của mỗi con người như ăn, mặc, đi lại, chỗ ở …Đây là nhu cầu chính
và cũng là động lực chính khiến người lao động phải làm việc. Cuộc sống
ngày càng được nâng cao nhu cầu của con người cũng thay đổi chuyển dần
từ nhu cầu về lượng sang nhu cầu về chất.
Nhu cầu về tinh thần: là những nhu cầu đòi hỏi con người đáp ứng
được những điều kiện để tồn tại và phát triển về mặt trí lực. Xã hội
ngày càng phát triển thì nhu cầu về các giá trị tinh thần cũng nâng cao
nó bao gồm.
+ Nhu cầu học tập để nâng cao trình độ.
+ Nhu cầu thẩm mỹ và giao tiếp xã hội.
+ Nhu cầu công bằng xã hội.
Nhu cầu vật chất và tinh thần của con người có quan hệ biên chứng với
nhau điều đó bắt nguồn từ mối quan hệ vật chất- ý thức. Đây là hai nhu
cầu chính và cũng là cơ sở để thực hiện tạo đọng lực cho lao động.
- Các giá trị thuộc về cá nhân người lao động.
+ Năng lực thực tế của người lao động: là tất cả những kiến thức,
kinh nghiêm mà người lao động đã đúc kết được trong suốt quá trinh học
tập và lao động. Mỗi người lao động có những khả năng riêng nên động
khiến họ làm việc tích cực hơn cũng khác nhau, khi họ có đầy đủ điều
kiện để phát huy khả năng của mình thì động lực lao động sẽ tăng lên.
+ Tính cách cá nhân của mỗi người lao động: Đây là yếu tố cá nhân
bên trong mỗi con người và được thể hiện qua quan điểm của họ trước một
sự việc, sự kiện nào đó. Quan điểm của người lao động có thể mang tính
tích cực hoạc tiêu cực do vậy tạo động lực cho người lao động còn chịu
một phần ảnh hưởng từ tính cách của họ.
- Các yếu tố bên trong công việc: Các yếu tố phụ thuộc vào bản chất công việc mà người lao động đang làm.
Đó là sự phù hợp giữa khả năng làm việc với trình độ của người lao động,
khi người lao động cảm thấy công việc đang làm là phù hợp với mình họ
sẽ tích cực lao động để đạt được mục tiêu của mình ngược lại khi công
việc không phù hợp người lao đọng dễ dẫn đến tình trạng chán nản, không
tập trung vào công việc.
- Các yếu tố thuộc môi trường quản lý.
Tất cả những công tác quản lý trong tổ chức đề có những ảnh hưởng nhất định tới động lực làm việc của người lao động, cụ thể.
+ Điều kiện và chế độ thời gian lao động: đây là yếu tố có ảnh
hưởng không nhỏ tới động lực lao động, khi điều kiện lao động thuận lợi,
môi trường lam việc đảm bảo an toàn, vệ sinh người lao động sẽ yêu
thích công việc hơn, làm việc tốt hơn.
+ Tổ chức phục vụ nơi làm việc: Là sự sắp xếp, bố tri công việc
phục vụ cho người lao động đảm bảo môi trường làm việc tốt nhất để người
lao động phát huy một cách tối đa mọi khả năng của bản thân. Tạo điều
kiện để quá trình sản xuất được liên tục nhịp nhàng.
+ Thù lao lao động: Là số tiền mà tổ chức trả cho người lao động
vì những gì họ đã phục vụ. Khi người lao động cảm thấy thu nhập nhận
được là tương xứng với công sức họ bỏ ra thì người lao động sẽ co động
lực để làm việc phục vụ tổ chức. Thù lao lao độngkhông công bằng sẽ có
ảnh hưởng xấu tới động lực lao động vì khi đó họ cho rằng minh đang bi
đối xử không công bằng. Vì vậy người quản lý cần phải thực hiện công tác
thù lao lao động một cách hợp lý nhất tạo tam lý thoải mái và tinh thần
đoàn kết tập thể.
+ Đánh giá kết quả làm việc: là một hoạt động quản lý nguồn nhân
lực quan trọng và luôn tồn tại trong mọi tổ chức. Hoạt đọng đánh giá kết
quả làm việc xác định mức lao động mà người lao động đã thực hiên được
để xét các mức khen thưởng hoặc kỷ luật đồng thời qua công tác đánh giá
cũng xem xét được năng lực, thành tích và triển vọng của từng lao động
từ đó đưa ra các quyết định nhân sự có liên quan. Kết quả đánh giá cũng
có ảnh hưởng đến tâm lý tình cảm của từng người nên nếu đánh giá không
chính xác co thể dẫn đến hậu quả không mong muốn.
+ Kỷ luật lao động: Là những tiêu chuẩn quy định những hành vi cá
nhân của người lao động mà tổ chức xây dựng nên dựa trên cơ sở pháp lý
hiện hành và các chuẩn mực đạo đức xã hội. Khi thực hiện kỷ luật lao
động người quản lý nên tránh tình trạng xử lý mang tính cá nhân gây bất
bình cho người lao động.
+ Công tác đào tạo cho lao động: là các hoạt động nhằm nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực của tổ chức. Do vậy trong các tổ chức công tác
đào tạo phát triển cần được thực hiện một cách bài bản có kế hoạch rõ
ràng, đối tượng được đào tạo cũng phải chon lựa kỹ lưỡng tránh trường
hợp đào tạo sai tay nghề chuyên môn. Người lao động luôn muốn học tập
nâng cao trình độ, tay nghề đáp ứng sản xuất, khi chính sách đào tạo hợp
lý sẽ tao được động lực cho họ lam việc.
+ Văn hóa trong tổ chức: là toàn bầu văn hóa ứng xử, giao tiếp
trong tổ chức. Nơi nào có được bầu không khí văn hóa tốt sẽ có được tinh
thần đoàn kết cao, thực hiện công viêc dễ dàng hơn,làm việc với tinh
thần hăng say vui vẻ, cán bộ công nhân viên biết quan tâm tới nhau cả
trong công việc và trong cuộc sống. Ngược lại dù điều kiện cơ sở vật
chất có cao, khen thưỏng, lương bổng có tốt tới mấy cũng sẽ gây chán nản
cho người lao động.
3. Một số học thuyết tạo động lực trong lao động.
Có nhiều học thuyết khác nhau về tạo động lực và được tiếp cận dưới
nhiều hình thức riêng. Tuy nhiên các học thuyết cùng có chung một kết
luận là việc nâng cao động lực cho người lao động sẽ dẫn tới tăng năng
suất lao động và thắng lợi hơn của tổ chức.
a: Học thuyết nhu cầu của maslow.
Maslow cho rằng con người có nhiều nhu cầu mong muốn được thỏa mãn và
được sắp xếp theo thứ tự nhất định. Theo ông con người có năm nhu cầu
cần được thỏa mãn và được sắp xếp theo thứ tự thỏa mãn từng nhu cầu. Học
thuyết của Maslow cho rằng khi mỗi một nhu cầu trong số các nhu cầu
trên được thỏa mãn thì nhu cầu tiếp theo trở nên quan trọng hơn. Sự thỏa
mãn nhu cầu của các cá nhân sẽ di theo thứ bậc như trên và mặc dù không
có nhu cầu nào được thỏa mãn hoàn toàn nhưng một nhu cầu đã được thỏa
mãn thì không còn tạo ra động lực được nữa. Do vậy Maslow cho rằng để
tạo ra được động lực cho nhân viên người quản lý cần phải hiểu nhân viên
đó đang nằm trong thứ bậc nào của nhu cầu.
b: Học thuyết hai yếu tố của Herzberg.
Herzberg đưa ra lý thuyết hai yếu tố về sự thỏa mãn trong công việc và tạo động lực, ông chia các yếu tố thành 2 nhóm như sau.
Nhóm 1 bao gồm các yếu tố then chốt để tạo động lực và sự thỏa mãn trong công việc như sau.
- Sự thành đạt.
- Sự thừa nhận thành tích.
- Bản chất bên trong công việc.
- Trách nhiệm lao động.
- Sự thăng tiến.
Đó là các yếu tố thuộc về công việc và về nhu cầu bản thân của người lao
động. Khi các nhu cầu này được thỏa mãn thì sẽ tạo được động lưc cho
người lao động.
Nhóm 2 bao gồm các yếu tố thuộc về môi trường tổ chức.
- Các chế độ và chính sách quản trị của công ty.
- Sự giám sát công việc.
- Tiền lương.
- Các mối quan hệ con người trong tổ chức.
- Các điều kiện làm việc.
Học thuyết này đã chỉ ra hàng loạt nhưng yếu tố tác động tới tạo động
lực và sự thỏa mãn nhu cầu của người lao động, đồng thời cũng gây được
ảnh hưởng cơ bản tới thiết kế và thiết kế lại ở nhiều công ty.
c: Học thuyết kỳ vọng của Victor Vrom.
Học thuyết kỳ vọng của Victor Vrom nhấn mạnh mối quan hệ nhận thức. Theo
học thuyết này một sự nỗ lực nhâts định sẽ dẫn tới một thành tích nhất
định và thành tích đó sẽ dẫn tới một kết quả hoặc phần thưởng như mong
muốn. Chính vì thế theo ông các nhà quản lý cần phải làm cho người lao
động hiểu được mối quan hệ trực tiếp giữa nỗ lực- thành tích, thành
tích- kết quả/ phần thưởng.
d: Học thuyết công bằng của J Stacy Adam.
J Stacy Adam đề cập tới vấn đề nhận thức của người lao động về mức độ
đối xử công bằng và đúng đắn trong tổ chức. Các cá nhân trong tổ chức có
xu hướng so sánh sự đóng góp của họ và các quyền lợi họ được hưởng với
người khác. Người lao động sẽ cảm nhận được sự công bằng nếu:
hư vậy theo J Stacy Adam để tạo ra được động lực cho lao động, nhà quản
lý phải tạo được sự cân bằng giưa những đóng góp và quyền lợi mà các cá
nhân nhận được.
4. Các phương pháp tạo động lực trong lao động.
Để tạo được động lực cho người lao động, người quản lý cần phải có những
kế hoạch, phương hướng thực hiện một cách rõ ràng, chủ yếu tập trung
vào một số nội dung chính sau.
Xây dựng định mức lao động, nhiệm vụ và tiêu chuẩn thực hiện công việc cho từng người lao động.
Để phát huy sức mạnh tập thể và tinh thần làm việc hăng say, nhà quản lý
cũng nên xây dựng mục tiêu và nhiệm vụ cho đội ngũ nhân viên. Một trong
những cách này là đưa ra mục tiêu sống còn, quan trọng mà công ty cần
vượt qua, chẳng hạn như tăng doanh số so với năm ngoái, hay vượt qua thị
phần của một công ty cạnh tranh… Nếu nhà quản lý biết cách, chắc chắn
nhân viên sẽ liên kết lại và "xả thân" vì màu cờ sắc áo của công ty
mình. Những nhiệm vụ cần phải thực hiện đó là: - Xác định rõ mục tiêu
hoạt động của doanh nghiệp, phổ biến các mục tiêu đến từng lao động và
làm cho người lao động hiểu rõ mục tiêu đó.
- Xác định mục tiêu cụ thể và các định mức, tiêu chuẩn thực hiện công
việc cho người lao động, nhân viên phải được giao quyền và được có trách
nhiệm. Rủi ro do những quyết định của nhân viên được giao quyền sẽ rất
nhỏ khi chúng ta đã có một chương trình huấn luyện, kèm cặp tốt.
- Đánh giá thương xuyên và công bằng mức độ hoàn thành nhiệm vụ của
người lao động qua đó giúp người lao động điều chỉnh những hành vi của
mình cho phù hợp với yêu cầu của tổ chức từ đó giúp họ làm việc tốt hơn.
Tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động hoàn thành nhiệm vụ.
Nhiệm vụ của người lãnh đạo là phải tạo điều kiện thuân lợi trong công
việc giúp cho nhân viên nhận thấy rằng, công việc mà họ đang làm hợp với
chuyên môn, kỹ năng của mình, cũng như có thể giúp họ phát triển về
nghề nghiệp và tương lai. Song song đó là làm cho nhân viên cảm nhận
mình là một phần tử quan trọng của công ty. Người lãnh đạo nên "kéo" tất
cả nhân viên của mình vào mọi hoạt động quan trọng của công ty. Khi đó
họ sẽ yêu công ty và làm việc hăng say hơn. Các bước thực hiện như sau:
- Phân công bố trí lao động một cách hợp lý đảm bảo ”đúng người đúng
việc” tranh tình trạng làm trai ngành trái nghề gây khó khăn trong công
việc cho người lao động.
- Cung cấp đầy đủ, kịp thời các điều kiện cần thiết phục vụ cho công
việc. thiết kế lại công việc để người lao động cảm thây công việc của
mình có nhiều thú vị giúp họ hăng say hơn trong công việc.
- Loại trừ các trở ngại trong khi thực hiện công việc của từng người lao động.
Kích thích vật chất, tinh thần cho người lao động.
Trong mỗi bản thân con người đều tồn tại hai mặt sinh học và xã hội, sự
phát triển của con người gắn liền với sự phát triển của hai mặt này. Vì
thế muốn thúc đẩy sự phát triển của con người thì cần phải có sự kích
thích về cả hai mặt này để tạo ra đươc một sứ mạnh tổng hợp, cụ thể:
Kích thích vật chất nhằm tác động vào mặt sinh học, kích thích tinh thần
nhằm tác động vào mặt xã hội. Nhu cầu của con người là vô hạn, tổ chức
không thể đáp ứng tất cả những nhu cầu của họ song khả năng của con
người cũng là vô hạn. Do đó các nhà quản lý phải có những chính sách cụ
thể tạo động lực cho người lao động để họ có thể cống hiến hết khả năng
của bản thân.
- Kích thích bằng vật chất
Tạo động lực lao động thông qua tiền lương.
“Tiền lương là một khoản tiền mà người lao động nhận được từ người sử
dụng lao động sau khi đã hoàn thành những công việc nhất định”. Như vậy
tiền lương là một trong những công cụ đắc lực, là động cơ thúc đẩy con
người làm việc. Tiền lương mà người lao động được trả phải đảm bảo phản
ánh đúng sự đóng góp của người lao động và được những nhu cầu cần thiết
cơ bản trong cuộc sống của họ thì người lao động mới phát huy được tài
năng của mình, thúc đẩy được động lực lao động.
Tuy vậy không phải tổ chức nào cũng phải trả một mưc lương thật cao cho
người lao động để có được động lực vì điều này còn phụ thuộc vào khả
năng chi trả và ý muốn chi trả của tổ chức. Do đó để nâng cao vai trò
kích thích lao động thông qua tiền lương cần phải xác định đúng đắn mối
quan hệ giữa tiền lương với sự cống hiến của người lao động. Công tác
trả lương cho lao động phải đảm bảo được những yêu cầu và nguyên tắc cỏ
bản để có thể tạo được động lực cho người lao động làm việc.
- Tạo động lực lao động thông qua tiền thưởng.
“ Tiền thưởng là một trong những công cụ đãi ngộ quan trọng trong việc
tao động lực cho lao động, làm tăng thêm thu nhập cho lao động khuyến
khích họ lam việc hăng say hơn”. Khi họ đạt được thành tích, nhà quản lý
phải biết cách khen thưởng kịp thời. Việc quan trọng này phải được làm
thường xuyên chứ không phải đợi đến cuối năm. Chẳng hạn như việc bầu
chọn nhân viên xuất sắc, nhân viên có nhiều sáng kiến, nhân viên phục vụ
khách hàng tốt nhất, nhân viên bán hàng giỏi nhất... có thể tiến hành
hàng tháng hay hàng quý.
Việc bầu chọn phải hết sức công bằng, hợp lý. Việc tiến hành công nhận
hay trao giải thưởng phải trang trọng. Thông tin khen thưởng phải được
công bố rộng rãi cho mọi nhân viên, đối tác và đặc biệt là gia đình của
người được khen thưởng.
Nhà quản lý cũng nên chú ý công nhận và khen thưởng những nhân viên
không nằm trong danh sách những nhân viên xuất sắc, nhưng luôn làm tốt
công việc, và gắn bó với công ty. Được sếp khen, nhất là khen trước mặt
mọi người, về những thành tích của mình là một trong những liều thuốc
"sung" hiệu lực nhất.
Kích thích về tinh thần cho người lao động
- Tạo vị tri ổn định cho người lao động làm việc.
Mỗi người lao động đều mong muốn có được công việc ổn định, nó xuất phát
từ nhu cầu ổn định cuộc sống của con người. Ngoài ra con người luôn
muốn phat triển mọi khả năng của bản thân, được học hỏi, được thể hiên
bản thân mình.
Thực tế cho thấy khi người lao động có được công việc ổn định thì tâm lý
của họ sẽ ổn định hơn mưcs độ tập trung trong công việc cao hơn. Co xu
hướng phấn đấu mạnh mẽ hơn để đạt thành tích cao trong lao động. Do đó
người quản lý cần phải tạo cho người lao động một tâm lý ổn định trong
công việc, tạo được lòng tin từ người lao động giúp họ gắn bó hơn với
công việc của mình và với tổ chức.
Xây dựng bầu không khí lành mạnh, đầm ấm trong công ty.
Bầu không khí xã hội trong công ty được biểu hiện trong những giao tiếp
xã hội thường ngày giữa những người lao động đối nới các mối quan hệ xã
hội, đối với lãnh đạo, đối với công việc.
Kích thích lao động là tạo ra sự thôi thúc bên trong của con người đến
với lao động, sự thôi thúc đó được tạo ra dựa trên một tác động khách
quan nào đó lên ý thức. Do đó, khi kích thích bất cứ hoạt động lao động
nào, người ta phải chú ý đến các yếu tố tâm lý như mục đích công việc,
nhu cầu, hứng thú, động cơ làm việc của mỗi cá nhân và hàng loạt các đặc
điểm tâm lý cá nhân cũng như tập thể, từ đó mới có thể hình thành được
biện pháp kích thích hữu hiệu
- Tổ chức công tác đào tạo nâng cao tay nghề, đào tạo mới.
Ngày nay khoa học công nghệ phát triển con người ngày càng phải tiếp xúc
với những công việc đòi hỏi trình độ cao. Do đó họ có nhu cầu hoc tập
để không ngừng nâng cao trình độ, đáp ứng kíp thời khi công nghệ thay
đổi.
Các nhà quản lý cần phải chú trọng công tác đào tạo phát triển để duy
trì và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên công tác đào tạo
phải được thực hiện một cách co quy củ mới có thể đạt được hiệu quả tốt
nhất. Công tác đào tạo thể hiện được sự quan tâm của tổ chức tới nhân
viên từ đó tạo được niềm tin gắn kết người lao động với tổ chức, tạo cho
họ động lực để phát huy khả năng của mình để phục vụ cho tổ chức đồng
thời cũng tạo điều kiện để áp dụng những tiến bộ kỹ thuật và quản lý vao
tổ chức.
Tổ chức các phong trào thi đua, lập thành tích.
Các tổ chức tạo ra phong trào thi đua trong lao động để tạo sự phấn đấu
nâng cao năng suất của người lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu, nâng
cao hiệu quả kinh tế. Người lao động sẽ phấn đấu lao động để đạt hoặc
vượt mục tiêu đề ra khi đó tổ chức sẽ có những khen thưởng, động viên cụ
thể. Người lao động sẽ so sánh khả năng, năng lực của minh với đồng
nghiệp chính vì thế tạo nên sự ganh đua trong lao động, kích thích tri
tuệ của họ.
Người quản lý cần tạo được những phong trào thi đua đúng đắn phù hợp tạo
tinh thần trách nhiệm, sự hứng thú, đòi hỏi sự phấn đấu, cạnh tranh
trong lao động. Đi đôi với điều đó là những khen thưởng cụ thể động viên
họ, tạo cho họ cảm giác được cấp trên quan tâm, hoan thành tốt công
việc và có được cơ hội thăng tiến. Ngoài ra nếu như có điều kiện doanh
nghiệp nên thành lập các câu lạc bộ thể thao, các tiểu tổ văn hoá, xây
dựng các trung tâm thể dục lớn, các phòng tập thể dục và các biệt thự ở
các khu nghỉ mát để viên chức nghỉ ngơi và giải trí cùng nhau. Các quan
hệ cá nhân tốt được hình thành và củng cố thông qua những hoạt động tập
thể này.
5. Sự cần thiết phải tạo động lực trong lao động.
Đối với cá nhân người lao động.
Con người luôn có những nhu cầu cần được thỏa mãn về cả hai mặt vật chất
và tinh thần. Khi người lao động cảm thấy những nhu cầ của mình được
đáp ứng sẽ tạo tâm lý tốt thúc đẩy người lao động làm việc hăng say hơn.
Đối với cá nhân người lao động không có động lực lao động thì hoạt động
lao động khó có thể đạt được mục tiêu của nó bởi vì khi đó họ chỉ lao
động hoàn thành công việc được giao mà không có được sự sáng tạo hay cố
gắng phấn đấu trong lao động, họ chỉ coi công việc đang làm như một
nghĩa vụ phai thực hiện theo hợp đồng lao động mà thôi. Do đó nhà quản
lý cần phải tạo được động lực thúc đẩy tính sáng tạo và năng lực làm
việc của nhân viên.
Người lao động chỉ hoạt động tích cực khi mà họ được thỏa mãn một cách
tương đối những nhu cầu của bản thân. Điều này thể hiện ở lợi ích mà họ
được hưởng. Khi mà người lao động cảm thấy lợi ích mà họ nhận được không
tương xứng với những gì họ bỏ ra họ cảm thấy không thỏa mãn được những
nhu cầu của mình thì sẽ gây ra cảm giác chán nản làm việc không tập
trung cao. Lợi ích là phương tiện để thỏa mãn nhu cầu nên lợi ích mà
người lao động nhân được phải tương xứng với những gì họ cống hiến thì
mới tạo ra động lực cho họ làm việc.
Động lực lao động còn giúp cho người lao động có thể tự hoàn thiện mình.
Khi có được động lực trong lao động người lao động có được nỗ lực lớn
hơn để lao động học hỏi, đúc kết được những kinh nghiệm trong công việc,
nâng cao kiến thức, trình độ để tự hoàn thiện mình. Nếu không có động
lực
Đối với doanh nghiệp.
Hiện nay nước ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Kinh nghiệm của Nhật Bản và các “con rồng Châu Á” cho thấy
phải tiến ra con đường đi riêng phù hợp với đặc điểm chính trị, kinh tế,
văn hoá và xã hội Việt Nam. Đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn vì
phải đuổi kịp trình độ khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới trong
một thời gian ngắn với điều kiện cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu và
thiếu vốn đầu tư. Một trong những giải pháp tình thế là tăng năng suất
lao động để có thể tạo ra lợi nhuận cao hơn trên cơ sở trang thiết bị và
vốn sẵn có, do đó có tốc độ tích luỹ vốn nhanh hơn. Vì lý do nêu trên,
vấn đề kích thích lao động hiện đang là mối quan tâm của nhiều nhà lãnh
đạo và quản lý. Mặt khác, khi vấn đề vốn đầu tư và trang thiết bị đã
được giải quyết thì tăng năng suất và kích thích lao động sáng tạo vẫn
là vấn đề bức xúc cần đầu tư giải quyết thích đáng để doanh nghiệp và
các cơ quan nghiên cứu nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung có thể
phát triển nhanh và có hiệu quả.Kích thích lao động là tạo ra sự thôi
thúc bên trong của con người đến với lao động, sự thôi thúc đó được tạo
ra dựa trên một tác động khách quan nào đó lên ý thức. Do đó, khi kích
thích bất cứ hoạt động lao động nào, người ta phải chú ý đến các yếu tố
tâm lý như mục đích công việc, nhu cầu, hứng thú, động cơ làm việc của
mỗi cá nhân và hàng loạt các đặc điểm tâm lý cá nhân cũng như tập thể
khác, từ đó mới có thể hình thành được biện pháp kích thích hữu hiệu. Có
thể kích thích lao động bằng vật chất, bằng giao tiếp hoặc băng cách
thoả mãn các nhu cầu khác của con người tạo ảnh hưởng đến hành vi, cụ
thể là nó có thể định hướng, điều chỉnh hành vi của cá nhân. Tạo động
lực kích thích lao động làm việc có tác dụng :
- Tạo sự gắn kêt giữa lao động với tổ chức giữ được nhân viên giỏi, dảm được tỉ lệ nghỉ việc.
- Tăng mức độ hài lòng, niềm tin, sự gắn bó và tận tụy của các nhân viên trong doanh nghiệp.
- Dảm thời gian, chi phí tuyển và đào tạo nhân viên mới.
- Tăng năng suất lao động, hiệu quả sử dụng lao động.
- Là nền tảng để tăng doanh số, cải thiện lợi nhuận.
st
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét