Phân tích tài chính doanh nghiệp
Bộ phận Tư vấn và Phân tích, CTCK Hà Nội (HSSC) - 16:47 24/08/09
Phân
tích tài chính là một tập hợp khái niệm, phương pháp và công cụ cho
phép tập hợp và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác nhằm
trợ giúp cho việc ra quyết định tài chính.
Khái niệm
Phân
tích tài chính là một tập hợp khái niệm, phương pháp và công cụ cho
phép tập hợp và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác nhằm
trợ giúp cho việc ra quyết định tài chính. Trọng tâm của phân tích tài
chính doanh nghiệp là phân tích các báo cáo tài chính và chỉ tiêu tài
chính đặc trưng thông qua hệ thống phương pháp, công cụ và kỹ thuật giúp
cho nhà phân tích từ các góc độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng
hợp khái quát, vừa xem xét chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp để
nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra các quyết định tài chính, quyết
định tài trợ và quyết định đầu tư.
Mỗi
đối tượng khác nhau sẽ quan tâm tới các nội dung tài chính khác nhau
của doanh nghiệp. Tuy nhiên, về cơ bản, quá trình phân tích tài chính
doanh nghiệp gồm các bước: thu thập thông tin; xử lý thông tin; dự báo
và đưa ra quyết định tài chính. Thông tin sử dụng trong phân tích tài
chính bao gồm thông tin kế toán và các thông tin khác, trong đó, thông
tin kế toán có vai trò quan trọng nhất.
Các loại báo cáo tài chính chủ yếu
Các
báo cáo tài chính là tài liệu cung cấp thông tin về tình hình hoạt động
kinh tế của doanh nghiệp, được lập dựa vào phương pháp kế toán tổng hợp
từ các sổ sách kế toán, theo các chỉ tiêu tài chính phát sinh tại những
thời điểm hoặc thời kỳ nhất định. Các báo cáo tài chính phản ánh có hệ
thống tình hình tài sản của các đơn vị tại các thời điểm, kết quả hoạt
động kinh doanh và tình hình sử dụng tài sản của doanh nghiệp trong
những thời kỳ nhất định, động thời giải trình giúp cho các đối tượng sử
dụng thông tin tài chính nhận biết được thực trạng tài chính, tình hình
sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp để ra các quyết định phù hợp. Các
báo cáo tài chính chủ yếu bao gồm: bảng cân đối kế toán; báo cáo kết
quả kinh doanh; báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bản thuyết minh các báo
cáo tài chính.
-
Bảng cân đối kế toán: là báo cáo tổng hợp, cho biết tình hình tài chính
của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Bảng cân đối kế toán được
chia làm 2 phần: phần nguồn vốn, phản ánh cơ cấu tài trợ của doanh
nghiệp bao gồm nợ và vốn chủ sở hữu. Phần tài sản phản ánh quy mô và kết
cấu các loại tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của doanh
nghiệp, bao gồm tài sản ngắn hạn và dài hạn. Về nguyên tắc cân đối,
nguồn vốn phải bằng tài sản.
-
Báo cáo kết quả kinh doanh: là báo cáo tổng hợp, cho biết kết quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định, bao gồm
hoạt động sản xuất - kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động khác.
Ngoài ra, báo cáo kết quả kinh doanh còn phản ánh tình hình thực hiện
nghĩa vụ với Nhà nước của doanh nghiệp trong thời kỳ đó.
-
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: phản ánh lưu chuyển tiền tệ hay các luồng
tiền vào, luồng tiền ra, tình hình tài trợ, đầu tư bằng tiền của doanh
nghiệp trong từng thời kỳ nhất định. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ thường
gồm các phần lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh; lưu chuyển tiền tự
hoạt động đầu tư và lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính.
Phân tích các tỷ lệ tài chính
Trong
phân tích tài chính, các nhà phân tích sử dụng phương pháp phân tích so
sánh, phương pháp phân tích tỷ lệ và phân tích tài chính Dupont. Phương
pháp phân tích tài chính hay được các nhà phân tích sử dụng hơn vì các
tỷ lệ tài chính cung cấp những ý nghĩa đầy đủ về mối quan hệ giữa giá
trị riêng rẽ trên các báo cáo tài chính. Các tỷ lệ tài chính được phân
tích trong mối quan hệ với toàn bộ nền kinh tế, với đặc thù của mỗi
ngành và luôn sử dụng số liệu quá khứ để phân tích. Các tỷ lệ tài chính
được chia thành 5 nhóm chính: nhóm tỷ lệ về cơ cấu; nhóm tỷ lệ về khả
năng thanh toán; nhóm tỷ lệ về khả năng hoạt động (hiệu quả hoạt động,
khả năng sinh lời); nhóm tỷ lệ về phân tích rủi ro (rủi ro kinh doanh,
rủi ro tài chính, rủi ro thanh khoản); nhóm tỷ lệ phân tích khả năng
tăng trưởng.
1. Nhóm tỷ lệ phân tích cơ cấu - báo cáo phân tích cơ cấu
Báo
cáo phân tích cơ cấu là một bảng bao gồm tỷ trọng của từng khoản mục
của báo cáo tài chính, trong đó tất cả khoản mục của bảng cân đối kế
toán được so sánh với tổng giá trị tài sản và tất cả các khoản mục của
báo cáo kết quả kinh doanh được do sánh với doanh thu. Các tỷ lệ trong
báo cáo phân tích rất hữu ích trong việc so sánh nhanh quy mô giữa hai
DN khác nhau và kiểm tra xu hướng trong nội bộ một công ty.
2. Nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán
Nhóm tỷ lệ này đo lường khả năng thanh toán các khoản nợ trong ngắn hạn của DN, gồm:
-
Hệ số thanh toán ngắn hạn: được xác định dựa vào thông tin từ bảng cân
đối tài sản bằng cách lấy giá trị của tài sản ngắn hạn chia cho giá trị
nợ ngắn hạn phải trả, phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn
của DN bằng cách sử dụng các tài sản ngắn hạn.
Hệ
số thanh toán ngắn hạn càng lớn chứng tỏ khả năng thanh toán của DN
càng tốt, song khả năng sinh lời của tài sản lại kém do DN phải đánh đổi
giữa khả năng thanh toán với khả năng sinh lời nhằm tránh rủi ro phá
sản DN. Tất nhiên, cần phải so sánh với tỷ lệ trung bình ngành cũng như
toàn bộ thị trường để có kết luận chính xác.
-
Hệ số thanh toán nhanh: khi xác định hệ số thanh toán ngắn hạn, ngoài
tiền mặt, chứng khoán thanh khoản và các khoản phải thu, chúng ta đã
tính cả hàng tồn kho trong giá trị tài sản ngắn hạn đảm bảo cho nợ ngắn
hạn. Tuy nhiên, trên thực tế hàng tồn kho kém thanh khoản hơn vì mất
thời gian và chi phí tiêu thụ mới có thể chuyển thành tiền. Do vậy, hệ
số thanh toán nhanh được sử dụng để phản ánh khả năng thanh toán của DN,
mà không cần phải chịu tổn thất khi phải bán các khoản tồn khi loại tài
sản kém lỏng nhất trong tài sản ngắn hạn của DN.
-
Hệ số thanh toán tức thời: tỷ lệ đo lường khả năng thanh toán của DN
một cách hữu hiệu nhất phải nói đến là hệ số thanh toán tức thời, nó cho
biết khả năng thanh toán các khoản nợ bằng tiền và chứng khoán dễ bán
của DN.
Vòng quay các khoản phải thu
Để
kiểm tra tính thanh khoản của tài sản, các nhà phân tích sẽ đo lường
tính lỏng của khoản phải thu. Nếu DN thu hồi được khoản nợ của mình càng
nhanh thì càng có khả năng thanh toán khoản nợ trong ngắn hạn. Nói cách
khác, vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ biến đổi các khoản
phải thu thành tiền mặt. Chỉ số này là thước đo quan trọng để đánh giá
hiệu quả hoạt động của DN.
Nói
chung, hệ số vòng quay các khoản phải thu càng lớn chứng tỏ tốc độ thu
hồi nợ của DN càng nhanh, khả năng chuyển đổi các khoản nợ phải thu sang
tiền mặt cao, điều này giúp DN nâng cao luồng tiền mặt, tạo ra sự chủ
động trong việc tài trợ nguồn vốn lưu động trong sản xuất. Ngược lại,
nếu hệ số này càng thấp thì số tiền của DN bị chiếm dụng ngày càng
nhiều, lượng tiền mặt sẽ ngày càng giảm, làm giảm sự chủ động của DN
trong việc tài trợ nguồn vốn lưu động trong sản xuất và có thể DN sẽ
phải đi vay ngân hàng để tài trợ thêm cho nguồn vốn lưu động này.
Từ
chỉ số vòng quay các khoản phải thu ta tính được hệ số ngày thu tiền
bình quân bằng cách lấy số ngày trong kỳ chia cho vòng quay các khoản
phải thu. Ngược lại, với chỉ số vòng quay các khoản phải thu, chỉ số
ngày thu tiền bình quân càng nhỏ thì tốc độ thu hồi công nợ phải thu của
DN càng nhanh.
Vòng quay các khoản phải trả
Phản
ánh khả năng chiếm dụng vốn của DN đối với nhà cung cấp. Chỉ số vòng
quay các khoản phải trả quá thấp có thể ảnh hưởng không tốt đến xếp hạng
tín dụng của DN.
Vòng
quay các khoản phải trả kỳ này nhỏ hơn kỳ trước chứng tỏ DN chiếm dụng
vốn và thanh toán chậm hơn. Ngược lại, nếu vòng quay các khoản phải trả
kỳ này lớn hơn kỳ trước chứng tỏ DN chiếm dụng vốn và thanh toán nhanh
hơn kỳ trước. Nếu vòng quay các khoản phải trả quá nhỏ (các khoản phải
trả lớn), sẽ tiềm ẩn rủi ro về khả năng thanh khoản. Tuy nhiên, cũng cần
lưu ý việc chiếm dụng khoản vốn này có thể giúp DN giảm chi phí về vốn,
đồng thời thể hiện uy tín về quan hệ thanh toán đối với nhà cung cấp và
chất lượng sản phẩm với khách hàng.
Vòng quay hàng tồn kho
Một
điều chú ý là việc xác định số vòng quay hàng tồn kho cũng có thể dựa
vào doanh thu bán hàng. Tuy nhiên, giá vốn hàng bán phản ánh chính xác
hơn, vì trong giá vốn hàng bán không bao gồm cả phần lợi nhuận DN thu về
trong lượng hàng hóa bán ra.
Vòng
quay hàng tồn kho càng cao càng cho thấy DN bán hàng nhanh và hàng tồn
kho không bị ứ đọng nhiều. Có nghĩa, DN sẽ ít rủi ro hơn nếu nhìn thấy
trong báo cáo tài chính, khoản mục hàng tồn kho giảm qua các năm. Tuy
nhiên, chỉ số này quá cao cũng không tốt, vì như thế có nghĩa là lượng
hàng dự trữ trong kho không nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột ngột
thì khả năng DN bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh giành thị
phần. Thêm nữa, dự trữ nguyên liệu vật liệu đầu vào cho các khâu sản
xuất không đủ có thể khiến cho dây chuyền bị ngưng trệ. Vì vậy, vòng
quay hàng tồn kho cần đủ lớn để đảm bảo mức độ sản xuất đáp ứng được nhu
cầu khách hàng.
Vòng quay tiền
Một
cách thức rất hữu ích trong việc đánh giá khả năng thanh khoản là vòng
quay tiền, tức là kết hợp các số liệu tính toán được từ kỳ thu tiền bình
quân, kỳ dự trữ tiền bình quân và kỳ trả tiền bình
Nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động
Đây
là nhóm tỷ lệ cho biết hoạt động của DN hiệu quả như thế nào. Chúng
được phân thành 2 nhóm chính: nhóm tỷ lệ hiệu quả hoạt động và nhóm tỷ
lệ khả năng sinh lời.
1. Nhóm tỷ lệ hiệu quả hoạt động
- Hiệu suất sử dụng tổng tài sản:
Phản ánh hiệu quả sử dụng tổng tài sản nói chung. Tỷ lệ này cho biết bình quân mỗi đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu/Tổng tài sản ròng bình quân.
Với mỗi ngành nghề khác nhau, tỷ lệ này rất khác nhau.
- Hiệu suất sử dụng tài sản cố định (TSCĐ) ròng:
Hiệu suất sử dụng TSCĐ ròng = Doanh thu/Tổng tài sản cố định ròng bình quân.
Nếu
so sánh với DN trong ngành hay toàn bộ nền kinh tế nói chung, tỷ lệ này
của DN thấp hơn nhiều thì điều đó có nghĩa là vốn của DN bị ứ đọng quá
nhiều trong TSCĐ. Ngược lại, nếu tỷ lệ này quá cao so với trung bình
ngành thì điều đơn giản là DN đang sử dụng TSCĐ đã khấu hao hoàn toàn,
hoặc đã lạc hậu, cũ kỹ.
- Hiệu suất sử dụng vốn chủ sở hữu:
Hiệu suất sử dụng vốn chủ sở hữu = Doanh thu thuần/Vốn chủ sở hữu bình quân.
Vốn
chủ sở hữu ở đây bao gồm cả vốn góp của cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu
thường, thặng dư vốn và tổng lợi nhuận để lại. Hiệu suất sử dụng vốn chủ
sở hữu bị tác động bởi cơ cấu vốn của DN.
2. Nhóm tỷ lệ khả năng sinh lời
- Tỷ suất lợi nhuận biên:
Lợi
nhuận biên được đo bằng doanh thu thuần từ bán hàng và cung cấp dịch vụ
trừ đi giá vốn hàng bán. Từ đó, tính tỷ suất lợi nhuận biên như sau:
Tỷ suất lợi nhuận biên = Tổng lợi nhuận/Doanh thu bán hàng.
Cơ
cấu sản phẩm và phương thức tiêu thụ có ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận
biên. Một sự thay đổi nhỏ trong cơ cấu sản phẩm tiêu thụ hoặc phương
thức bán hàng cũng làm thay đổi tỷ suất lợi nhuận biên. Tỷ lệ này với
mỗi ngành khác nhau, với mỗi ngành ở các giai đoạn tăng trưởng khác nhau
cũng khác nhau.
- Tỷ suất hoạt động biên:
Để
tính tỷ suất lợi nhuận hoạt động biên, có thể xác định lợi nhuận bằng
cách lấy tổng doanh thu trừ đi chi phí bán hàng, chi phí sản xuất chung
và chi phí quản lý.
Tỷ suất lợi nhuận hoạt động biên = Lợi nhuận hoạt động/Doanh thu bán hàng thuần.
Sự
biến động của tỷ suất lợi nhuận hoạt động biên qua thời gian là một
trong những nguyên nhân cơ bản gây nên rủi ro kinh doanh của một DN.
- Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA):
ROA
là tỷ lệ chỉ ra mối quan hệ giữa lợi nhuận thu về của DN với tất cả
lượng tài sản tham gia vào sản xuất - kinh doanh hay tổng vốn của DN
(nợ, vốn cổ phần ưu đãi và cổ phần thường). Bởi vậy, lợi nhuận ở đây
được hiểu là thu nhập ròng từ hoạt động, tức thu nhập sau thuế (trước
khi trả cổ tức) cộng với tổng chi phí trả lãi cho khoản nợ.
ROA = (Thu nhập sau thuế + Tổng chi phí trả lãi)/Giá trị tổng vốn bình quân.
- Suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE)
ROE = Lợi nhuận ròng/Vốn cổ phần.
ROE
là thước đo chính xác nhất để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích
lũy được tạo ra bao nhiêu đồng lời. ROE càng cao càng chứng tỏ DN sử
dụng hiệu quả đồng vốn của cổ đông, nghĩa là DN đã cân đối một cách hài
hòa giữa vốn cổ đông với vốn đi vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của
mình trong quá trình huy động vốn, mở rộng quy mô.
Phương pháp phân tích tài chính Dupont
Còn
gọi là phân tích tách đoạn, được thực hiện bằng cách tách ROE thành các
nhân tố khác nhau, nhằm phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đó tới thu
nhập của chủ sở hữu.
ROE = NI/E = NI/S x S/A x A/E
Trong
đó: NI là lợi nhuận ròng; S là doanh thu; A là tổng tài sản và E là vốn
chủ sở hữu. Với cách thay thế như vậy, ta sẽ có tỷ suất lợi nhuận trên
vốn chủ sở hữu chịu ảnh hưởng của 3 nhóm nhân tố: tỷ suất lợi nhuận biên
(NI/S); hiệu suất sử dụng tổng tài sản (S/A) và đòn bẩy tài chính
(A/E).
Một
DN có thể tăng ROE bằng cách nâng cao hiệu suất sử dụng tổng tài sản
(ROA) hoặc tăng tỷ lệ đòn bẩy tài chính (sử dụng nhiều nợ hơn để tài trợ
cho tổng tài sản).
Phương pháp phân tích tài chính Dupont mở rộng
Với
phương pháp phân tích tài chính Dupont mở rộng, các nhà phân tích đã
đưa ra một số nhân tố bên trong ảnh hưởng đến ROE, gồm 5 nhân tố:
- Tỷ suất lợi nhuận ròng biên (EBIT/doanh thu bán hàng);
- Hiệu suất sử dụng tổng tài sản (Doanh thu bán hàng/tổng tài sản);
- Tỷ lệ chi phí trả lãi (Chi phí trả lãi/tổng tài sản);
- Đòn bẩy tài chính (Tổng tài sản/vốn chủ sở hữu);
- Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế so với lợi nhuận trước thuế (1-Thuế TNDN/EBT) = NI/EBT.
Những phân tích này sẽ giúp NĐT biết được những thay đổi về giá trị ROE của DN cũng như các nguyên nhân gây ra chúng.
Nhóm tỷ lệ về phân tích rủi ro
Phân
tích rủi ro sẽ kiểm chứng sự không chắc chắn về các dòng thu nhập của
toàn bộ DN và các nguồn vốn riêng lẻ như nợ, cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu
thường. Cụ thể hơn là chúng ta sẽ xem xét những nhân tố chính gây ra sự
sai lệch về các luồng thu nhập của DN. Các luồng thu nhập của DN càng
không ổn định thì NĐT sẽ phải đối mặt với càng nhiều rủi ro. Hai loại
rủi ro nội tại của mỗi DN là rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính.
-
Rủi ro kinh doanh là sự không chắc chắn về thu nhập của DN do bản chất
của hoạt động kinh doanh. Sự không ổn định hay không chắc chắn này bắt
nguồn từ những khó khăn trong các khâu khác nhau của quá trình sản xuất -
kinh doanh: chi mua nguyên vật liệu đầu vào, tiêu thụ sản phẩm, quan hệ
với khách hàng và cả cách thức mà DN sản xuất sản phẩm. Đặc biệt, thu
nhập hoạt động của DN không ổn định là bởi hoạt động tiêu thụ sản phẩm
cũng như chi phí nguyên vật liệu đầu vào biến đổi một cách thường xuyên
và rất khó lường trước.
Rủi
ro kinh doanh của một DN được đo lường bằng những sai lệch của các
luồng thu nhập qua thời gian. Tức là chúng ta sử dụng độ lệch chuẩn của
một chuỗi bộ số liệu về thu nhập của DN trong quá khứ:
Rủi ro kinh doanh = Độ lệch chuẩn của các luồng thu nhập hoạt động/Thu nhập hoạt động trung bình
Độ
lệch chuẩn của các luồng thu nhập hoạt động cho phép chúng ta so sánh
rủi ro kinh doanh giữa các hãng với quy mô khác nhau. Để tính toán được
chỉ số này, chúng ta phải có bộ số liệu từ 5 đến 10 năm. Nếu ít hơn 5
năm, việc phân tích sẽ không có ý nghĩa, còn nếu quá 10 năm thì kết quả
tính toán sĩ bị coi là lỗi thời.
Bên
cạnh việc tính toán rủi ro kinh doanh, cũng cần phải tính đến 2 nhân tố
tác động đến sự biến đổi thu nhập hoạt động là mức biến đổi sản lượng
và đòn bẩy hoạt động.
-
Rủi ro tài chính: là loại rủi ro mà DN phải đối mặt khi huy động vốn từ
các khoản nợ để tài trợ cho hoạt động của DN. Người ta thường tính toán
rủi ro tài chính bằng việc xem xét cấu trúc vốn của một DN. Sự xuất
hiện của các khoản nợ trong cấu trúc vốn sẽ tạo ra cho DN những nghĩa vụ
trả lãi phải được thanh toán cho chủ nợ trước khi trả cổ tức cho
cổ đông nên nó có tác động lớn đến thu nhập của họ. Rủi ro tài chính là
rủi ro có thể tránh được trong phạm vi mà các nhà quản lý có toàn quyền
quyết định vay hay không vay. Một DN không vay nợ chút nào sẽ không có
rủi ro tài chính.
Mức
độ rủi ro tài chính có thể chấp nhận được của DN phụ thuộc nhiều vào
rủi ro kinh doanh. Với một DN có mức độ rủi ro kinh doanh thấp (thu nhập
từ hoạt động ổn định), các nhà đầu tư thường chấp nhận một mức rủi ro
tài chính cao hơn.
Trong
phân tích rủi ro tài chính thường sử dụng 3 chỉ tiêu tài chính: tỷ lệ
nợ so với vốn chủ sở hữu; tỷ lệ so sánh giữa thu nhập với chi phí cố
định và chi phí trả lãi; tỷ lệ so sánh dòng tiền với chi phí tài chính
hoặc so sánh các dòng tiền với giá trị sổ sách của các khoản nợ chưa
trả.
Phân tích khả năng tăng trưởng
Phân
tích khả năng tăng trưởng là nội dung quan trọng trong phân tích và
định giá DN. Sự tăng trưởng của một DN cũng giống như sự tăng trưởng của
nền kinh tế nói chung, nó phụ thuộc vào tổng khối lượng tài sản giữ lại
và tái đầu tư; tỷ lệ thu nhập trên tài sản giữ lại và tái đầu tư.
Tỷ
lệ lợi nhuận để lại càng cao thì tiềm năng tăng trưởng của DN càng lớn.
Nói cách khác, với một mức lợi nhuận tái đầu tư cho trước, DN nào có tỷ
lệ thu nhập trên tổng tải sản để lại càng cao thì sẽ có mức tăng trưởng
cao hơn.
Tỷ
lệ lợi nhuận giữ lại được quyết định bởi HĐQT dựa trên các cơ hội đầu
tư tiềm năng của DN. Một DN có thể giữ lại thu nhập và tái đầu tư, miễn
là tỷ lệ thu nhập dự tính từ các khoản đầu tư đủ bù đắp chi phí vốn của
DN. Theo phương pháp phân tích tài chính Dupont, DN có thể tăng ROE bằng
cách tăng tỷ suất lợi nhuận biên, tăng cường hiệu quả hoạt động hoặc
bằng cách tăng đòn bẩy tài chính. Tuy nhiên, việc tăng cường đòn bẩy tài
chính có thể làm tăng rủi ro tài chính.
Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại = 1 - (Cổ tức chi trả/thu nhập hoạt động sau thuế)
Các tỷ lệ phân phối lợi nhuận
Đây là các chỉ tiêu được rất nhiều các nhà đầu tư quan tâm, nó bao gồm:
* Thu nhập của mỗi cổ phiếu: EPS = Lợi nhuận sau thuế/số cổ phiếu lưu hành;
* Cổ tức = Lợi nhuận đem chia/số lượng cổ phiếu lưu hành;
* Tỷ lệ chi trả cổ tức = Lợi nhuận đem chia/lãi sau thuế = Cổ tức/EPS.
Tuy
nhiên, trên thực tế, tỷ lệ chi trả cổ tức được xác định bằng tỷ lệ phần
trăm giữa cổ tức được trả so với mệnh giá của cổ phiếu.
* Giá trên thu nhập = Giá cổ phiếu/EPS
* Tỷ lệ chi trả cổ tức so với giá trị sổ sách = D/BV
Các
phân tích trên nhằm đánh giá thực trạng tài chính của DN, trong đó có
hai nhân tố quan trọng nhất là thu nhập và rủi ro, trên cơ sở đó xác
định giá chứng khoán; xác định và đánh giá mức độ rủi ro của cổ phiếu;
xếp hạng nợ của DN; đánh giá khả năng phá sản DN.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét