BUSINESS ADMINISTRATION

Home

Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2012

Marketing thành công- tạo ra sự khác biệt (p1)



Bất kỳ một sản phẩm hay dịch vụ nào cũng có thể được làm cho khác biệt, ngay cả những
hàng hóa mà xem ra chỉ khác với hàng của các đối thủ về giá cả mà thôi.


Trên vô tuyến truyền hình lúc nào ta cũng thấy sự khác biệt hóa, (phân biệt, khu biệt)
sản phẩm, bất kể chủ đề của pha quảng cáo là một mặt hàng có thể nhận thấy rõ ràng sự
khác biệt như xe ô tô, hay một mặt hàng không thể nhận thấy rõ ràng sự khác biệt như bột
giặt. Đây là những mặt hàng được đóng gói (hàng có bao bì). Làm thế nào các nhà tiếp thị
có thể tạo ra sự khác biệt cho những thứ gọi là hàng hóa (commodity) như cồn isopropyl,
thép ống, các dịch vụ ngân hàng thương mại, hay ngay cả cố vấn pháp luật? Tác giả mô tả
những thuộc tính của sản phẩm mang đến cơ hội cho các nhà tiếp thị thu hút được khách
hàng trong cuộc cạnh tranh và giữ được họ sau khi đã chiến thắng. Cuối cùng, tác giả mô tả
trạng thái tư duy giàu tưởng tượng và cảnh giác vốn đặc trưng cho sự quản lý tốt việc làm
cho các sản phẩm trở nên khác biệt. Ông nói: “Cách điều hành của nhà quản lý cũng chính
là sự mở rộng việc làm cho các sản phẩm trở nên khác biệt.”

Chẳng có cái gì gọi là hàng hóa chuẩn. Tất cả các sản phẩm và dịch vụ đều có thể làm
cho khác biệt được. Cho dù người ta thường cho rằng điều này đúng với các mặt hàng tiêu
dùng hơn là với các hàng dùng cho sản xuất (nguyên vật liệu công nghiệp) và dịch vụ công
nghiệp, nhưng điều ngược lại cũng là sự thật.
Trên thương trường, sự khác biệt hóa có ở mọi nơi. Mọi người – nhà sản xuất, nhà
chế tạo, người bán hàng, người môi giới, đại lý, nhà buôn – cố gắng không ngừng làm cho
sản phẩm chào bán của mình khác với của những người khác. Điều này đúng ngay cả với
những người sản xuất và buôn bán kim loại cơ bản, ngũ cốc, hóa chất, chất dẻo và tiền.
Những nhà chế tạo hàng dùng cho sản xuất và hàng tiêu dùng tìm kiếm sự khác biệt
có tính cạnh tranh thông qua đặc tính sản phẩm – một số có thể xác định được bằng cách đo
lường hay bằng thị giác, một số ngụ ý qua sự trau chuốt bề ngoài, và một số được xác nhận
một cách hoa mỹ thông qua nhắc đến những thuộc tính thực tế hay những thuộc tính kín đáo ,
được gợi ra, vốn hứa hẹn những kết quả hay những giá trị khác với sản phẩm của các đối thủ
cạnh tranh.

Đối với dịch vụ tiêu dùng và công nghiệp cũng thế – nói chính xác là cái mà tôi gọi là
“những thứ vô hình”. Ví dụ trong việc trao đổi hàng hóa chẳng hạn, các nhà buôn bán kim
loại, ngũ cốc, và thịt sườn heo mua bán những sản phẩm chung hoàn toàn không khác biệt.
Nhưng cái mà họ “bán” là sự phân biệt được xác nhận về việc thực hiện công việc của họ –
tính hiệu quả của những giao dịch của họ với tư cách là đại diện cho khách hàng, sự đáp ứng
của họ trước những câu hỏi, sự rõ ràng và tốc độ của những xác nhận của họ, và những thứ
đại loại thế. Nói văn tắt, những sản phẩm được chào bán của họ được làm cho khác biệt, cho
dù sản phẩm chung là đồng nhất.
Khi sản phẩm chung không có gì khác biệt, sản phẩm được chào bán làm nên sự khác
biệt trong việc thu hút khách hàng và sản phẩm được giao làm nên sự khác biệt trong việc
lưu giữ khách hàng. Khi vị đối tác cao cấp thông thạo của một công ty môi giới Chicago nổi
tiếng xuất hiện ở một ngân hàng tại thành phố New York trong một bộ com-lê polyester xanh
lá mạ chật cứng và đôi giày Gucci để gạ gẫm kinh doanh trong các hợp đồng kỳ hạn về công
cụ tài chính, kết cục có thể tiên đoán được là tệ hại. Sự chào bán không dự tính trước thể hiện
qua y phục bề ngoài tương phản với sự chào bán dự tính trước với sự trình bày được chuẩn bị
kỹ lưỡng của ông ta. Chẳng có gì lạ khi bậc đàn anh Thomas Watson khăng khăng đòi hỏi
một cách kiên quyết rằng các nhân viên bán hàng của ông phải mặc những “bộ đồng phục”
IBM nổi tiếng. Dù rằng chiếc áo có thể không làm được thầy tu, nhưng chúng vẫn có thể
giúp làm nên doanh số.

Người ta thường giả định về những thứ gọi là những hàng hóa không được phân biệt
rằng chúng hết sức nhạy cảm với giá cả. Một mức giá thấp một chút có thể dành được việc
kinh doanh. Điều đó ít khi đúng ngoại trừ trong thế giới tưởng tượng của những quyển sách
giáo khoa kinh tế. Trong thế giới thực tế của các thị trường, không một mặt hàng nào được
miễn trừ khỏi những cân nhắc khác, ngay cả khi cạnh tranh giá cả diễn ra ác liệt.
Trong những thời kỳ thặng dư lâu dài, công suất dư thừa, và cuộc chiến tranh giá cả
không nguôi căng thẳng, thì sự chú ý của mọi người dường như không nhắm vào gì khác
ngoài giá cả, chính xác vì giá cả thì có thể dễ thấy được và đo lường được, và có tác động tàn
phá tiềm tàng, cho nên giá cả làm cho mọi người không chú ý đến các khả năng giải thoát sản
phẩm khỏi cuộc cạnh tranh giá cả khốc liệt. Các khả năng này, ngay cả trong ngắn hạn,
không đơn thuần chỉ hạn chế trong cuộc cạnh tranh phi giá cả, như việc bán hàng bằng cách
gặp đích thân trực tiếp tích cực hơn, quảng cáo gia tăng, hay điều được gọi một cách lỏng lẻo
là “dịch vụ” nhiều hơn hay tốt hơn.

Để thấy rõ các khả năng này là gì, trước tiên ta nên xem xét một sản phẩm chính xác
ra là gì.
 

Marketing thành công- tạo ra sự khác biệt (p2)


:x Tiếp nối phần 1 của Maketing thành công- tạo ra sự khác biệt. Ở phần 2 này cung cấp tới các bạn khái niệm tổng quan về sản phẩm. Bạn sẽ có góc nhìn mới về sản phẩm sau khi đọc bài này. Khái niệm sản phẩm đưa ra trong bài không chỉ đơn thuần là sản phẩm hữu hình mà còn được xem xét kĩ càng, phân tích sâu sắc hơn giá trị vô hình của sản phẩm. Một góc nhìn khác biệt để tạo ra sự thành công trong hoạt động marketing hiện đại.

Sản phẩm là gì?
Sản phẩm gần như luôn luôn là sự kết hợp của những thứ vô hình và hữu hình. Một chiếc ô
tô không chỉ đơn thuần là một cỗ máy để di chuyển được phân biệt một cách có thể thấy rõ
và đo lường được bởi kiểu dáng, kích thước, màu sắc, sự lựa chọn, mã lực, hay số dặm
đường trên một ga lông xăng. Mà nó còn là một biểu tượng phức tạp thể hiện địa vị, thị hiếu,
đẳng cấp, sự thành đạt, khát vọng, và [ngày nay] là biểu hiện của sự “khôn ngoan” – nghĩa là
mua sự tiết kiệm nhiên liệu hơn là phô trương. Nhưng khách hàng còn mua nhiều hơn nữa
chứ không chỉ những thuộc tính này. Những nỗ lực to lớn của các nhà sản xuất ô tô để cắt
giảm thời gian từ khi đặt hàng đến khi giao hàng, để chọn lựa, đào tạo, giám sát và tạo động
cơ thúc đẩy những người buôn bán ô tô cho thấy rằng những thứ này cũng là những bộ phận
không thể tách rời của các sản phẩm mà người ta mua và do đó chúng cũng là những phương
cách để qua đó có thể làm khác biệt sản phẩm.

Theo cùng một cách thức, một máy tính không đơn thuần chỉ là một chiếc máy lưu
trữ và xử lý dữ liệu, mà còn là một hệ điều hành với những giao thức phần mềm đặc biệt để
sử dụng và những hứa hẹn về bảo trì và sửa chữa. Sợi carbon là những chất phụ gia hóa học
làm tăng độ cứng có thể uốn được, giảm trọng lượng, làm tăng sức chịu đựng, chống ăn mòn,
và làm giảm chi phí chế tạo khi kết hợp với những vật liệu nhất định khác. Nhưng sợi carbon
không có giá trị gì đối với người sử dụng không có kinh nghiệm nếu không có sự giúp đỡ về
thiết kế và ứng dụng mà chỉ những người bán có kinh nghiệm mới có thể cung cấp được.

Trong những đề xuất hợp đồng hàng ngàn trang của các nhà thầu chính phủ hay
những đề xuất tư vấn dài năm trang cho các khách hàng công nghiệp, sản phẩm là một lời
hứa mà thực chất thương mại của nó nằm ở danh tiếng được vun bồi cẩn thận của người đề
xuất (hay “hình tượng” của người đề xuất) và trong việc chuẩn bị kỹ càng hình thức của lời
đề xuất cũng như trong nội dung vật chất của nó.

Khi nội dung thực chất của các sản phẩm của những người bán hàng cạnh tranh chắc
chắn không thể tạo ra khác biệt, thì sức mạnh bán hàng dịch chuyển sang việc tạo ra sự khác
biệt ở những điểm đặc biệt mà qua đó người mua có thể bị ảnh hưởng. Về khía cạnh này, tất
cả những sản phẩm được chế tạo bởi Morgan Stanley & Co., Lockheed, McKinsey & Co., và
Revlon có rất ít khác biệt về mặt thực chất. Cho dù mỗi nhà sản xuất hùng hồn đưa ra những
sự khác biệt chung to tát so với các đối thủ cạnh tranh, nhưng mỗi nhà sản xuất bận tâm sâu
sắc đến việc đóng gói – nghĩa là bận tâm vào việc trình bày chính món hàng của mình một
cách độc đáo. Và quả thật, mỗi món hàng có thể độc đáo, nhưng tính độc đáo của nó chủ yếu
nằm ở những điều mà vượt xa món hàng chào bán chung.

Hãy xem hệ thống ngân hàng đầu tư. Các ngân hàng bảo lãnh phát hành hứa hẹn tiền
bạc cho người phát hành và đưa ra những lời hứa tương tự cho người mua. Nhưng cách thức
những lời hứa này được cấu trúc thành một gói có ảnh hưởng sâu sắc đến cả người phát hành
và người mua. Hãy xem đoạn trích dẫn sau đây từ một người quan sát gần của ngành này:
“Một ngôi nhà [ngân hàng đầu tư Mỹ] kiệt xuất có các lối vào trên hai đường phố, với các
loại giấy viết có tiêu đề, bao thư v.v khác nhau được in cho mỗi lối vào. Một cửa được dự trù ,
là có tính độc quyền hơn so với cửa kia, và một khách tham quan được cho là có thể nói lên
sự đánh giá của doanh nghiệp này về quan trọng của mình thông qua lối vào được chỉ ra trên
tiêu đề của giấy viết, bao thư v.v mà anh ta nhận được.” Rõ ràng là những sự phân biệt được
tạo ra này là những công cụ chào hàng dựa trên giả định rằng cách đối xử VIP (nhân vật rất
quan trọng) tại quầy tiếp tân với những khách tham quan nhất định sẽ thuyết phục họ về
những kết quả VIP sau này trên thực tế.

Đối với người mua tương lai, một sản phẩm là một tổ hợp phức tạp của những sự
thỏa mãn về giá trị. Sản phẩm chung không phải là chính sản phẩm; như trong trò chơi đánh
bài poker, nó chỉ là tiền đặt trên bàn – số tiền tối thiểu cần thiết lúc bắt đầu để cho các nhà
sản xuất một cơ hội tham dự cuộc chơi. Chính việc chơi bài mới đem đến kết quả, và trong
kinh doanh điều này có nghĩa là có được và giữ được khách hàng.

Khách hàng gán giá trị cho một sản phẩm tương xứng với khả năng được nhận thấy
của sản phẩm ấy trong việc giúp họ giải quyết những vấn đề hay đáp ứng những nhu cầu của
họ. Tất cả những cái khác chỉ là phái sinh. Như một chuyên gia marketing công nghiệp đã
nói, “’Sản phẩm … là trọn gói những lợi ích mà khách hàng nhận được khi họ mua.”

Hãy xem tinh thần thực dụng của các nhà sản xuất ô tô Detroit khi mua thép tấm.
Detroit mua hàng theo những qui cách kỹ thuật chặt chẽ, nhưng công ty qui định nhiều điều
chứ không chỉ là bản thân những tấm thép. Công ty cũng yêu cầu những điều kiện giao hàng
nhất định và tính linh hoạt, các điều kiện giá cả và thanh toán, và khả năng đáp ứng nhanh
khi đặt hàng lại. Suốt năm này sang năm khác, các công ty Detroit thay đổi tỷ phần thép họ
mua từ các nhà cung ứng khác nhau trên cơ sở hệ thống đánh giá kỹ lưỡng nhằm đo lường
thành quả phục vụ của mỗi nhà cung ứng dựa trên những điều kiện đã qui định, bao gồm loại
hình và chất lượng của những giúp đỡ tự nguyện về những vấn đề như những ý tưởng vật
liệu mới, ý tưởng về tái thiết kế linh kiện, và thậm chí thể thức mua hàng.

Rõ ràng, Detroit mua một tổ hợp những thỏa mãn về giá trị mà sản phẩm chung của
nó chỉ là một phần nhỏ. Nếu các điều kiện giao hàng và tính linh hoạt không được đáp ứng
chẳng hạn – hay nếu được đáp ứng một cách thất thường, miễn cưỡng, hay chỉ một phần –
khách hàng không có được sản phẩm mình kỳ vọng. Ngoài ra, nếu một nhà cung ứng hoạt
động hiệu quả hơn bằng những ý tưởng làm cho thuận tiện hơn, “sản phẩm” của nhà cung
ứng đó tốt hơn của các đối thủ cạnh tranh. Detroit thấy hết sức rõ ràng rằng thép carbon cuộn
nóng số 302, khổ 72 inch không phải là một hàng hóa (commodity). Nó là một sản phẩm có
sự khác biệt có thể đo lường được.

Người ta có thể quản lý được cái mà là “Thứ gì đó” trong toàn bộ việc có được khách
hàng và thỏa mãn khách hàng của nó. Để hiểu cách thức quản lý, biểu thị điều này bằng cách cho thấy rằng một sản phẩm gồm có một dãy khả năng.
 

Marketing thành công- tạo ra sự khác biệt (p3)



Sản phẩm chung

Cái “thứ” thực chất, cơ bản nhưng còn đơn sơ, khoản tiền đặt trên bàn trong kinh doanh − cái
cần thiết để có cơ hội tham dự cuộc chơi thị trường − là sản phẩm chung (generic product).
Đối với nhà sản xuất thép, nó chính là thép, hay trong ví dụ về Detroit, nó là thép cuộn nóng
số 302, khổ 72 inch, hay tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương của một nhà máy thép nào đó. Đối
với một ngân hàng, nó là các quỹ tiền có thể vay. Đối với nhà buôn bất động sản, nó là tài
sản mang bán. Đối với nhà bán lẻ, nó là một cửa hàng với một hỗn hợp nhất định các mặt
hàng có thể bán được. Đối với một luật sư, nó là việc đã thi đậu kỳ thi luật sư.

Chẳng phải tất cả các sản phẩm chung đều như nhau. Vượt qua được kỳ thi luật sư ở
New York thì không giống hệt như vượt qua kỳ thi luật sư tại Colorado. Do sự khác nhau đôi
chút giữa các quá trình sản xuất của các nhà sản xuất ô tô, trên thực tế, thép “302” của một
nhà cung ứng này có thể “tốt hơn” của một nhà cung ứng khác. Thép “302” của một nhà máy
thép này có thể bám sơn dễ dàng hơn hay nhanh hơn “302” của một nhà máy thép khác. Một
nhà cung ứng có thể đáp ứng các đơn đặt hàng chỉ từ một nhà máy thôi, và nhà cung ứng
khác thì từ một số nhà máy. Trong trường hợp sau, độ sáng bóng hay màu sắc của sản phẩm
chung từ các nhà máy khác nhau có thể hơi khác nhau, điều đó tạo ra sự khác biệt đáng kể
trong trường hợp thép không rỉ được sử dụng làm đồ trang trí.
Trong hầu hết trường hợp, những khác biệt này không nổi bật. Quan trọng hơn là
những thuộc tính của các thành phần kỳ vọng của sản phẩm.

Sản phẩm kỳ vọng


Trong hình I, sản phẩm kỳ vọng là mọi thứ trong phạm vi các vòng tròn xanh lục bên
ngoài và bên trong, bao gồm cả sản phẩm chung. Nó tượng trưng cho điều kiện mua hàng tối
thiểu của khách hàng. Lấy ví dụ, khách hàng cho cái gì là tuyệt đối thiết yếu trong thép tấm?
1. Giao hàng: Ở nhà máy nào? Khi nào? Không chỉ vào ngày nào, mà vào những giờ
nào mỗi ngày để tối thiểu hóa mặt bằng quí giá dành cho lượng thép dự phòng và để
giảm chi phí tồn kho? Nhà cung ứng phải “ngang bằng về mặt hậu cần” với người
mua. Người mua cũng kỳ vọng về số lượng thích hợp và tính linh hoạt – nghĩa là đáp
ứng nhanh chóng và không phiền nhiễu trước những khó khăn đột xuất về số lượng
và thời gian giao hàng. Cuối cùng, sự đối xử ưu đãi cũng có thể được nêu lên trong
trường hợp thiếu hụt.
2. Các điều khoản: Giá cụ thể cho những số lượng cụ thể trong thời hạn cụ thể. Trong
trường hợp có sự thay đổi giá trên bảng liệt kê giá, các điều khoản bao hàm những
thông số có thể đàm phán, có thể liên kết với những chỉ số như bình quân giá dao
động của phế liệu và các thành phần chế tạo thép khác trong những thời đoạn cụ thể.
Các điều khoản cũng có thể phản ánh cơ cấu chiết khấu liên quan đến mức độ thanh
toán nhanh và những điều khoản bổ sung về việc gia hạn thời hạn thanh toán.
3. Những nỗ lực hỗ trợ: Tùy vào việc sử dụng sản phẩm là gì, người mua có thể kỳ
vọng những lời khuyên và sự hỗ trợ về áp dụng đặc biệt.
4. Những ý tưởng mới: Người ta thường kỳ vọng những ý tưởng mới hay những đề nghị
của nhà cung ứng cho những cách sử dụng sản phẩm chung hiệu quả hơn và giảm chi
phí dưới những hình thức đã dự tính khác nhau, như là cách chế tạo, lớp phủ ngoài,
và cách ráp lại cho chắc chắn.
Người ta có thể biết rõ toàn bộ những điều này, nhưng những nguyên tắc cơ bản của
nó thì còn bao gồm nhiều thứ hơn nữa. Việc không đáp ứng được những kỳ vọng tinh tế hơn
có thể mang lại tiếng xấu cho sản phẩm chung. Một văn phòng môi giới tồi tàn có thể làm tài
sản chào bán không tiếp cận được với khách hàng, gây tổn thất cho nhà buôn bất động sản.
Cho dù người luật sư có thành tích sáng chói trong kỳ thi luật sư, và chiếm giữ những văn
phòng thanh lịch trang trọng nhưng tính cách của ông ta có thể xung đột với tính cách của
một khách hàng tương lai. Một máy công cụ giá cả cạnh tranh của một nhà sản xuất có thể có
hệ thống kiểm soát bằng số tinh xảo nhất ẩn sau một bảng điều khiển thật ấn tượng, nhưng
một số khách hàng có thể không mua vì dung sai đầu ra của nó chính xác hơn nhiều so với
mức độ cần thiết hay khả dụng của họ. Khách hàng thực sự có thể kỳ vọng và mong muốn ít
hơn.
Sản phẩm chung có thể bán được chỉ khi những kỳ vọng rộng lớn hơn của khách hàng
được đáp ứng. Người ta có thể sử dụng các phương tiện khác nhau để đáp ứng những kỳ
vọng này. Vì vậy việc làm khác biệt sản phẩm tuân theo các kỳ vọng. 
 Sản phẩm được tăng thêm giá trị

Việc tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm không chỉ hạn chế trong việc trao cho khách
hàng những gì họ kỳ vọng. Kỳ vọng của họ có thể được tăng thêm bằng những thứ mà họ
chưa bao giờ nghĩ tới. Khi một nhà sản xuất máy vi tính cài đặt một modun tự động xác định
nguyên nhân trục trặc bên trong thiết bị (như một số hãng hiện đang làm) họ đã thực hiện
một sản phẩm vượt xa những gì người mua yêu cầu hay kỳ vọng. Nó trở thành một sản phẩm
có giá trị tăng thêm. Khi một công ty môi giới chứng khoán có những bảng báo cáo hàng
tháng của các khách hàng kèm với bảng cân đối tài sản cho mỗi khách hàng và một bảng
phân tích nguồn vốn và phân bổ vốn, công ty đó đã làm tăng thêm giá trị sản phẩm của mình
vượt hơn những gì người mua yêu cầu hay kỳ vọng. Khi một nhà sản xuất các phương tiện
trợ giúp sức khoẻ và sắc đẹp cung ứng những lời khuyên về quản trị kho bãi và các chương
trình đào tạo cho nhân viên của các nhà phân phối, công ty đó đã làm tăng giá trị sản phẩm
nhiều hơn những gì người mua yêu cầu hay kỳ vọng.

Trong mọi trường hợp, nhà cung ứng đã vượt quá những kỳ vọng thông thường của
người mua. Trong trường hợp ví dụ thép của chúng ta, nó có thể được thực hiện thông qua
triển khai những phương cách tốt hơn để chế tạo và tạo một lớp phủ ngoài sản phẩm hay
giảm độ dày để giảm trọng lượng. Người bán có thể cung cấp những phương tiện trợ giúp
vừa phải nhưng bất ngờ khác, như những ý tưởng mới về lịch trình giao hàng, các điều khoản
“thú vị” hơn, những cách thức giao các lô hàng khác nhau để giảm khó khăn và chi phí xử lý
của người mua, và hệ thống lập hÓA đơn giúp trao cho người mua nhiều thông tin hơn về
các mô thức sử dụng sản phẩm chung theo các nhà máy, các phân xưởng hay các nhãn hiệu
khác nhau.

Tuy nhiên, không phải tất cả khách hàng, đối với mọi sản phẩm và trong mọi tình
huống đều có thể được thu hút bởi việc mở rộng mãi tổ hợp những sự thỏa mãn về giá trị.
Một số khách hàng có thể thích giá hạ hơn là sự tăng thêm giá trị sản phẩm. Một số không
thể sử dụng những dịch vụ tăng thêm này. Lấy ví dụ, những người sử dụng thép đã có thời
phụ thuộc vào các nhà máy đối với các trợ giúp ứng dụng và hỗ trợ kỹ thuật, dần dần lớn
mạnh đủ tinh vi để giải thoát mình khỏi sự phụ thuộc đó – sự tự do mà ngẫu nhiên dẫn đến sự
tăng trưởng nhanh của những trung tâm phân phối thép độc lập cạnh tranh với nhà máy thép.
(Bây giờ các trung tâm này, vốn đã làm cho mình khác biệt với các nhà máy thép qua
việc giao hàng nhanh hơn đối với những chất lượng và qui mô tiêu chuẩn, một tập hợp mặt
hàng rộng hơn, và khả năng xử lý những đơn đặt hàng nhỏ, đã làm tăng thêm giá trị sản
phẩm của họ bằng cách thực hiện thêm công việc chế tạo nhỏ và bổ sung thêm những dịch vụ
ứng dụng thép đặc biệt.)

Như một qui luật, người bán càng mở rộng thị trường bằng cách truyền thụ và giúp
đỡ khách hàng sử dụng sản phẩm của họ, thì họ càng trở nên dễ bị mất khách hàng hơn. Khi
một khách hàng không cần đến sự giúp đỡ nữa, họ sẽ có được tính linh hoạt trong việc tìm
kiếm những thứ mà họ đánh giá cao hơn, như giá cả chẳng hạn.

Ở điểm này, điều có ý nghĩa là bước vào một chương trình có hệ thống làm tăng giá
trị sản phẩm, làm lợi khách hàng, và nhờ đó giữ được khách hàng. Dĩ nhiên, người bán cũng
nên tập trung vào việc giảm chi phí và giá cả. Và đó là điều trớ trêu của sự chín mùi của sản
phẩm: chính xác khi cuộc cạnh tranh giá cả được tăng cường, và do đó việc giảm chi phí trở
thành quan trọng hơn, cũng là khi người bán có thể có lợi bằng việc gánh thêm những chi phí
bổ sung của sự làm tăng giá trị sản phẩm mới.
Sản phẩm được tăng thêm giá trị là một điều kiện của thị trường chín mùi hay những
khách hàng tương đối có kinh nghiệm, hoặc tinh vi. Chẳng phải họ không thể hưởng lợi từ
những dịch vụ tăng thêm, hay không thể đáp ứng trước những dịch vụ đó, mà khi một khách
hàng biết hoặc nghĩ rằng anh ta biết mọi thứ và có thể làm bất kỳ điều gì, người bán phải
kiểm tra giả định đó để không bị gánh chịu nỗi khổ của cuộc cạnh tranh giá cả một mình.
Cách tốt nhất để kiểm tra giả định của khách hàng rằng họ không muốn hoặc không cần tất
cả hoặc một phần giá trị sản phẩm tăng thêm nào đó là xét xem có thể cung ứng cho khách
hàng đó thứ gì.

Sản phẩm tiềm năng
Mọi thứ mà có thể được thực hiện để thu hút và giữ lại khách hàng là những thứ có thể được
gọi là sản phẩm tiềm năng. Đối với người sử dụng thép, hàng cung ứng có thể bao gồm:
- Những thay đổi kỹ thuật đề nghị, như thiết kế lại một thành phần để giảm trọng
lượng, tăng sức mạnh hay độ bền, giảm sự cong vênh một bên, cải thiện độ bám dính
và tính đáng mong đợi của lớp phủ ngoài, hay tăng cường tính an toàn.
- Những kết quả nghiên cứu thị trường về thái độ của khách hàng, và những vấn đề của
họ đối với những chất thay thế khác nhau cho thép (chất dẻo và nhôm, chẳng hạn).
- Những phương pháp và công nghệ mới về tạo dáng, định hình, và nối kết thép với
thép, thép với chất dẻo v.v…
- Những ý tưởng mới về chất bôi trơn, vật liệu giảm ồn, chất đệm và tấm lót.
- Những đề nghị đã được kiểm định về những hệ thống lắp ráp dễ dàng, nhanh chóng
và rẻ hơn.
- Những ý tưởng mới về những đặc tính sản phẩm khác nhau cho những phân đoạn
người sử dụng khác nhau, như nhóm thương mại, đoàn xe tắc xi, và các công ty cho
thuê, mỗi nhóm có những tiêu chí mua hàng riêng.
- Những đề xuất cụ thể, đã được kiểm định, để kết hợp các vật liệu như thép và sợi
thủy tinh.

Chỉ có ngân sách và trí tưởng tượng làm hạn chế các khả năng. Nhưng ngân sách là
và phải là bao nhiêu, điều này thường là một hàm số biến thiên theo những gì cần để cạnh
tranh trên mọi bình diện của sản phẩm tiềm năng.
Mọi thứ đều thay đổi theo các điều kiện – điều kiện kinh tế và điều kiện cạnh tranh.
Sự cạnh tranh có thể là một hàm số không chỉ biến thiên theo những gì các nhà cung ứng thép
đưa ra mà còn là một hàm số của những gì nhà cung ứng các chất thay thế đưa ra. Sự đáp ứng
nhiệt tình đối với việc đặt hàng lại trong những thời kỳ tốt đẹp gần như không quan trọng đối
với người mua cho bằng trong những thời kỳ yếu kém – trừ khi một đối thủ cạnh tranh sử dụng
một cách chiến lược những thời kỳ tốt đẹp (nghĩa là khi cầu cao và cung thiếu hụt) để cung cấp
cho một khách hàng triển vọng lớn nhằm chen chân vào thị trường.
Các điều kiện kinh tế, các chiến lược kinh doanh, những mong muốn của khách hàng,
các điều kiện cạnh tranh, và nhiều yếu tố hơn nữa có thể xác định nên những thứ tạo thành sản
phẩm một cách hợp lý. Mà cũng không phải là những thành tố của những phân loại sản phẩm
vừa mô tả là cố định. Những gì là “giá trị tăng thêm” đối với khách hàng này có thể là “kỳ
vọng” đối với khách hàng khác; những gì là “giá trị tăng thêm” trong tình huống này có thể là
“tiềm năng” trong một tình huống khác; một phần của những gì là “chung” trong những thời kỳ
cung thiếu hụt có thể là “kỳ vọng” vào những lúc cung dư thừa.

Cũng như với hầu hết mọi thứ trong kinh doanh, chẳng có gì là tĩnh một cách đơn
giản, hay được giải thích một cách đáng tin cậy bởi những nguyên tắc phân loại của sách giáo
khoa cả. Có một điều chắc chắn: chẳng có thứ gì đại loại như một hàng hóa chuẩn hóa – hay
ít nhất trên quan điểm cạnh tranh, không cần phải có những hàng hóa chuẩn hóa. Mọi thứ đều
có thể làm cho khác biệt được, và thật ra, chúng thường được khác biệt hóa.

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét