MỤC
LỤC
LỜI
MỞ ĐẦU
PHẦN 1: QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
TRONG XÃ HỘI TƯ BẢN……………………………………………………………………...3
I. Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá
trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư…………………………………………………………...3
II. Sự
phân chia tư bản thành tư bản bất biến, tư bản khả biến. Bản chất của tư
bản………………………………………………………………………………4
1.
Tư bản bất
biến và tư bản khả biến………………………………………4
2.
Bản chất tư
bản…………………………………………………………….5
III. Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng
dư………………………………………6
1.
Tỷ suất giá
trị thặng dư……………………………………………………6
2.
Khối lượng
giá trị thặng dư………………………………………………..6
IV. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
và giá trị thặng dư siêu ngạch8
1.
Hai phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư………………………………7
A. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối…………………………………….7
B. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối……………………………………8
2.
Giá trị thặng
dư siêu ngạch………………………………………………..8
V. Sản xuất giá trị thặng dư – quy luật kinh tế
tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản8
PHẦN II: SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG
DƯ TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY………………………………………………………………...11
1.
Thành
tựu đạt được và những hạn chế trong việc vận dụng quy luật sản xuất giá trị thặng
dư vào nền kinh tế Việt Nam………………………...11
2. Một số giải pháp để vận dụng lý luận giá trị thặng dư nhằm
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay………………………………………………………………………….19
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………...25
LỜI
MỞ ĐẦU
|
Lịch sử loài người đã trải qua
5 chế độ xã hội: Nguyên thủy, phong kiến, chiếm hữu nô lệ, tư bản chủ nghĩa, chủ
nghĩa xã hội. Mỗi chế độ đều gắn với một phương thức sản xuất riêng.
Chủ nghĩa tư bản ra đời gắn với sự phát triển
ngày càng cao của sản xuất hàng hóa. Nhưng sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa khác với sản xuất giản đơn
không chỉ về trình độ mà còn khác về chất. Trong nền kinh tế hiện nay xuất hiện
một loại hàng hóa mới đó là hàng hóa sức lao động. Khi sức lao động trở thành
hàng hóa thì tiền tệ mang hình thái là tư bản và gắn liền với nó là một quan hệ
sản xuất mới xuất hiện: Quan hệ giữa nhà tư bản và người làm thuê. Thực chất mối
quan hệ này là nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư của công nhân làm thuê.
Nhưng quá trình tư bản thể hiện bản chất và những thủ đoạn bóc lột giá trị thặng
dư đó được diễn ra và sử dụng như thế nào.
Do đó nhóm em sẽ đi sâu vào
nghiên cứu đề tài: “ Quá trình sản xuất
ra giá trị thặng dư dưới Chủ nghĩa tư bản. Từ đó liên hệ vào nền kinh tế Việt
Nam hiện nay.”
Trong quá trình làm bài tiểu luận
vì kiến thức còn hạn chế nên khó tránh khỏi những sai sót và khuyết điểm. Vì vậy
nhóm em rất mong nhận được những nhận xét và góp ý của thầy và các bạn để bài
tiểu luận thêm hoàn thiện.
PHẦN I: QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
TRONG XÃ HỘI TƯ BẢN
I. SỰ THỐNG NHẤT GIỮA
QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ SỬ DỤNG VÀ QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1.
Quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng trong chủ nghĩa tư bản:
Mục đích sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất
giá trị thặng dư. Muốn vậy phải tổ chức sản xuất ra hàng hoá có giá trị sử dụng.
Do vậy, quá trình sản xuất TBCN là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất giá trị
sử dụng và quá trình sản xuất giá trị thặng dư.
2.
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư:
Muốn sản xuất giá trị
thặng dư, nhà tư bản buộc người công nhân phải sản xuất giá trị sử dụng của
hàng hóa nhất định nào đó. Việc sản xuất ra những giá trị sử dụng nằm dưới sự
kiểm soát của nhà tư bản, vì vậy quá trình sản xuất ở đây là quá trình sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Nhà tư bản là chủ thể của quá trình sản xuất, sau quá trình sản
xuất sẽ tạo ra hàng hóa mới có giá trị lớn hơn tổng giá trị những tư liệu sản
xuất và sức lao động mà nhà tư bản đã tiêu dùng trong sản xuất.
Quá trình này với tư
cách là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra hàng hóa với quá trình làm
tăng giá trị được phân tích qua một ví dụ sau:
§ Ví dụ về quá trình sản xuất sợi của nhà tư bản.
Để tiến hành sản xuất nhà tư bản mua các yếu tố
sản xuất và giả sử mua đúng giá trị.
10kg bông
giá 10 USD
Khấu hao máy móc thiết bị 2 USD
Mua sức lao động 3 USD/12giờ
Trong 1 giờ người công nhân tạo ra 0,5 USD giá
trị mới
Giả
sử trong 6h lao động đầu người công nhân đã thực hiện kéo hết 10 kg bông thành
sợi, giá trị của sợi là 15USD. Nếu quá trình sản xuất chỉ dừng ở đây thì sẽ
không tạo ra giá trị thặng dư. Tuy nhiên vì nhà tư bản mua sức lao động trong
12h. Tức là trong 6h sau họ vẫn phải lao động tạo ra hàng hoá sợi có giá trị 15
USD. Tuy nhiên trong quá trình này chi phí nhà tư bản bỏ ra chỉ có 12 USD. (
Không tính thêm chi phí mua sức lao động công nhân).
Vậy,
Tổng giá trị sản xuất trong ngày của công nhân 30USD
Tổng chi phí sản
xuất 15+12= 27USD
Giá trị thặng dư:
m = 3 USD
Từ sự phân tích
trên cho phép rút ra kết luận sau: Ngày lao động của công nhân chia làm hai phần,
phần thời gian lao động (6h đầu) là thời gian lao động cần thiết (xã hội) (t),
Phần còn lại của lao động (6h sau) là thời gian lao động thặng dư (t’).
Giá
trị sản phẩm được sản xuất ra bao gồm:
-
Giá trị tư liệu sản
xuất được lao động cụ thể của công nhân bảo tồn và di chuyển vào sản phẩm mới gọi
là giá trị cũ (c)
-
Giá trị do lao động
trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình lao động gọi là giá trị mới, phần
giá trị này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động (v) cộng
với giá trị thặng dư (m).
Kết luận:
- Như vậy, giá trị thặng dư là giá trị mới dôi
ra ngoài gía trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt,
là lao động không công của công nhân.
II. SỰ PHÂN CHIA TƯ BẢN THÀNH TƯ BẢN BẤT BIẾN,
TƯ BẢN KHẢ BIẾN. BẢN CHẤT CỦA TƯ BẢN:
1.Tư bản bất biến và tư bản khả biến:
Trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư, các
bộ phận khác nhau của tư bản có vai trò và tác dụng khác nhau.
A.
Tư bản bất biến: bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu
sản xuất bao gồm nhà xưởng, máy móc các thiết bị công cụ sản xuất, nguyên liệu,
nhiêu liệu, vật liệu,… Giá trị của nó không biến đổi về lượng trong quá trình sản
xuất gọi là tư bản bất biến ( kí hiệu là c - Constant)
B.
Tư bản khả biến: Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã có
sự biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất. Bộ phận tư bản này được gọi là
tư bản khả biến (kí hiệu là v – Variable).
- Tham gia tạo ra giá trị thặng dư bao gồm 2 yếu tố, trong đó tư bản khả
biến dùng để mua sức lao động có vai trò trực tiếp sáng tạo ra giá trị thặng
dư. Còn tư bản bất biến đóng vai trò gián tiếp, nó chỉ là điều kiện vật chất cần
thiết cho quá trình sản xuất, tự bản thân nó không sáng tạo ra giá trị thặng
dư.
-
Nếu kí hiệu giá
trị thặng dư là m thì giá trị mới sẽ là (v + m)
ð
Giá trị hàng hóa
tư bản chủ nghĩa bằng (c + v + m)
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động
trong sản xuất hàng hóa đã giúp C.Mác tìm ra chìa khóa để xác định sự khác nhau
giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến. C.Mác là người đầu tiên chia tư bản ra
thành tư bản
Sự phân chia này đã vạch rõ thực chất của bóc lột
tư bản chủ nghĩa, chỉ có lao động của công nhân mới trực tiếp tạo ra giá trị thặng
dư
2. Bản chất của tư bản :
Kinh tế học tư sản cho rằng mọi tư liệu sản xuất
đều là tư bản, người ta coi tư bản như một điều kiện vật chất tồn tại vĩnh viễn,
không thay đổi trong các xã hội. Điều này đã che giấu thực chất việc nhà tư bản
bóc lột công nhân làm thuê. Thực ra, bản chất các tư liệu sản xuất không phải
là tư bản, nó là điều kiện vật chất cần thiết của sản xuất trong bất cứ xã hội
nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà
tư bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế độ tư bản không còn nữa,
thì tư liệu sản xuất không còn nữa.
Như vậy, tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng
dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê, tư bản thể hiện quan hệ sản xuất giữa
giai cấp tư sản và vô sản, tư bản là phạm trù lịch sử.
III. TỶ SUẤT VÀ KHỐI LƯỢNG GIÁ TRỊ THẶNG DƯ:
1.
Tỷ suất giá
trị thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỉ số tính theo phần
trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến, tức là tỉ lệ theo đó tư bản khả
biến tăng thêm giá trị.
C,Mác dùng chữ m’ để chỉ tỉ suất giá trị thặng
dư
m’=
(m/v) x 100%
Tỉ suất giá trị thặng dư phản ánh mức độ bóc lột
của nhà tư bản đối với công nhân, nó chỉ rõ trong tổng số giá trị mới do sức
lao dộng tạo ra, thì công nhân được hưởng bao nhiêu, nhà tư bản chiếm đoạt bao
nhiêu, tuy nhiên chưa nói được vi mô của bóc lột tư bản.
m’
= (t’/t) x 100%
t’: Thời
gian lao động thặng dư
t: Thời
gian lao động tất yếu
Tỷ suất giá trị thặng dư còn chỉ rõ, trong một
ngày lao dộng, phần thời gian lao đọng thặng dư (t’), mà công nhân làm cho nhà
tư bản, chiếm bao nhiêu phần trăm so với thời gian lao động tất yếu (t).
2.
Khối lượng giá trị thặng dư:
khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỉ
suất giá trị thặng dư với tổng tư bản khả biến (V) được sử dụng.
Nếu gọi M là khối lượng giá trị thặng dư, ta có
công thức
M
= m’ x V
V
= v x Số lượng công nhân
V: tư bản khả biến đại diện cho tổng giá trị sức lao động
v : tư bản khả biến đại diện cho giá trị
một sức lao động
M: Phản
ánh quy mô sự bóc lột
Khối lượng giá trị thặng dư tùy thuộc vào 2
nhân tố: m’ và V. Điều đó có nghĩa là khối lượng giá trị thặng dư phụ thuộc vào
thời gian lao động thặng dư, cường độ lao động của công nhân và số lượng công
nhân mà nhà tư bản sử dụng.
Ví dụ: Công nhân ngày làm việc 8h thì tỷ suất
giá trị thặng dư là 300%. Sau đó nhà tư bản kéo dài ngày làm việc đến 10h thì tỷ
suất giá trị thặng dư thay dổi như thế nào nếu giá trị sức lao động không đổi
(V không đổi) .
Chú thích:
- t : thời gian lao động cần thiết
t’: thời gian lao động
thặng dư
· Trường hợp 1:
Ta
có công thức :
m’
= (t’/t) x100%
ó 300% = (t’/t ) x 100%
t’+ t = 8
t’ / t =3
ð
t’ = 6, t = 2
· Trường hợp
2 :
Vì giá trị sức lao động không đổi. => v
không đổi
Ta có:
t + t’ = 10
t=2
ð
t’= 8
ð
tỷ suất giá trị
thặng dư:
m’=
(t’/t )x 100% = (8/2) x 100% = 400%
ð
Tỷ suất giá trị
thặng dư tăng thêm = m’ (sau) – m’(đầu)
ð
=
400% - 300% =100%
IV. HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN
XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ SIÊU NGHẠCH:
1.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
A.
Sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối:
Giá trị thặng dư tuyệt đối
là giá trị thặng dư thu được bằng các kéo dài ngày lao động hoặc tăng cường độ
lao động trong khi thời gian lao động tất yếu, giá trị sức lao động và năng suất
lao động không thay đổi.
Giới hạn về thể chất, tinh
thần: giới hạn này đòi hỏi trong 24h của một ngày đêm người công nhân cần phải
ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí... phục hồi sức lao động. Với sự phát triển của sản
xuất tư bản chủ nghĩa, ngày lao động có xu hướng ngày càng ngắn hơn trước.
Giới hạn về kinh tế - xã hội:
về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu nhưng
không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động. Về mặt
xã hội, trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản mới ra đời, nhà nước ban bố nhiều đạo luật
có lợi cho giai cấp tư sản.
B.
Sản xuất giá trị thặng dư
tương đối:
Giá trị thặng dư tương đối
là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu, bằng cách
tăng năng suất lao động xã hội, qua đó hạ thấp giá trị sức lao động và làm tăng
tương ứng thời gian lao động thặng dư, trong điều kiện độ dài ngày lao động và
cường độ lao động không đổi.
2.
Giá trị thặng dư siêu ngạch:
Giá trị thặng dư siêu ngạch
là phần giá trị thặng dư thu được do giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá
trị xã hội.
Những doanh nghiệp nào đi
đầu trong đổi mới công nghệ sẽ thu được giá trị thặng dư. Giá trị thặng dư siêu
ngạch chính là giá tri thặng dư tương đối do tăng năng suất lao động mà có
nhưng khác ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do tăng năng xuất lao động xã hội,
do đó tất cả các nhà tư bản đều được hưởng. Còn gía trị thặng dư siêu ngạch là
do tăng năng suất lao động cá biệt nên chỉ có những nahf tư bản nào có năng suất
lao động cá biệt hơn năng suất lao động xã hội thì mới được hưởng giá trị thặng
dư siêu ngạch.
V. SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG
DƯ – QUY LUẬT KINH TẾ TUYỆT ĐỐI CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
1. Quy luật kinh tế tuyệt
đối:
Mỗi phương thức sản xuất
bao giờ cũng tồn tại một quy luật phản ánh bản chất của phương thức sản xuất,
quy định sự vận động phát triển của phương thức sản xuất và đóng vai trò chủ đạo
trong hệ thống các quy luật kinh tế gọi là quy luật kinh tế tuyệt đối.
3.
Quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản:
Trong nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa, quy luật kinh tế tuyệt đối được C. Mác xác định là quy luật sản xuất
giá trị thặng dư. Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm giàu, là nhân
giá trị lên, do đó là bảo toàn giá trị cũ và tạo ra giá trị thặng dư. Sản xuất
giá trị thặng dư là mục đích trực tiếp duy nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Vì mục đích này, các nhà tư bản sản xuất bất kỳ hàng hóa gì, kể cả phương tiện
giết người hàng loạt, miễn là tối đa hóa giá trị thặng dư.
Theo đuổi giá trị thặng dư
bằng bất cứ thủ đoạn nào là mục đích, động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà
tư bản cũng như của toàn bộ nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Giá trị thặng dư xét về bản chất là phạm
trù kinh tế riêng của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong mọi xã hội, các sản
phẩm thặng dư đều có giá trị nhưng chỉ trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, giá
trị của sản phẩm thặng dư mới là giá trị thặng dư. Phần giá trị thặng dư do lao
động của công nhân làm thuê sáng tạo ra ngoài giá trị sức lao động và bị nhà tư
bản chiếm không. Phạm trù giá trị thặng dư phản ánh mối quan hệ giữa tư bản và
lao động làm thuê, mối quan hệ cơ bản và
sâu sắc nhất của xã hội tư bản, xuyên suốt tất cả quan hệ sản xuất của xã hội
đó. Do vậy, sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa
tư bản.
4.
Vai trò
quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản:
Quy
luật giá trị thặng dư tác động quyết định đến mọi mặt của xã hội tư bản, nó quyết
định sự phát sinh, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nó là quy luật vận
động của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Quy
luật giá trị thặng dư, một mặt thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, phân công lao động xã
hội phát triển, làm cho lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng
lên nhanh chóng. Mặt khác, làm cho các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản,
trước hết là mâu thuẫn cơ bản của nó, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản
xuất với sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt. Mâu thuẫn này
diễn biến ngày càng phức tạp, quy định
xu hướng lịch sử tất yếu của chủ nghĩa tư bản là sẽ nhường chỗ cho một xã hội mới
văn minh hơn. Do vậy, đối với giai cấp tư sản hiện đại, việc tìm mọi cách để điều
chỉnh, để thích nghi, để tồn tại là vấn đề sống còn của chủ nghĩa tư bản ngày
nay.
PHẦN
II. SẢN SUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Là một nước tiến lên XHCN không
qua giai đoạn phát triển TBCN. Vì vậy chúng ta không kế thừa tất cả những tiền
đề nảy sinh một cách tự phát như những sang tạo của những người đi trước cho dù
chỉ là những nhân tố vô cớ. Điểm xuất phát để nhận thức tầm quan trọng của học
thuyết giá trị thặng dư chính là sản phẩm của lao động thừa vượt quá những chi
phí để duy trì lao động và việc xây dựng, tích lũy quỹ sản xuất xã hội và dự trữ “ Tất cả những cái đã và vẫn mãi mãi vẫn là
cơ sở cho mọi sự tiến bộ về xã hội, chính trị và về tinh thần. Nó sẽ là điều kiện
và động cơ kích thích sự tiến bộ hơn nữa”…
Đối với quá trình phát triển nền
kinh tế quốc dân nước ta, việc ngiên cứu sản xuất GTTD gợi mở cho các nhà hoạch
định chính sách phương thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta
còn thấp là nước tiểu nông cũng có nghĩa từ một nước chưa có nền kinh tế hàng
hóa mặc dù có sản xuất hàng hóa., để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cần tận dụng
triệt để các nguồn lực, nhất là lao động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản và
lâu dài, cần coi trong việc tăng năng suất lao động xã hội, coi đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân là giải pháp cơ bản để tăng năng
suất lao động XH, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
1.
Thành
tựu đạt được và những hạn chế trong việc vận dụng quy luật sản xuất giá trị thặng
dư vào nền kinh tế Việt Nam
GTTD là do lao động không công
của công nhân lao động làm thuê tạo ta, là mục đích, kết quả hoạt động của TB,
của giai cấp tư sản. Trong XHCN, với chủ trương việc bóc lột sức lao động không
công của người công nhân không còn nữa, nhưng không có nghĩa là GTTD không tồn
tại, mà GTTD đc sử dụng vào mục đích khác không giống như g/c tư sản, đó là giá
trị thặng dư thu được là cơ sở, tiền đề để xây dựng đất nước, xây dựng chế độ
công hữu về tư liệu sx, vì mục đích pt XHCN, vì con người. Không tách ra khỏi
xu hướng xh, VN vận dụng các phương pháp sản xuất GTTD vào trong công cuộc đổi
mới, trong đó tiến hạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một nhiệm vụ hàng đâu,
đây cũng là một quy luật đặc biệt của quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia.
Có thể thấy vì giá trị thặng dư
là cội nguồn sinh ra sự giàu có, sung túc vì xuất hiện giá trị mới, nên để duy
trì và phát triển sự giàu có, dôi dư này, giai cấp tư sản có xu hướng không ngừng
sản xuất ra càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt, sản xuất với quy mô ngày càng
lớn hơn trước. Những lợi tức, tiền bạc thu được đều được đưa vào tái đầu tư,
tái sản xuất, thuê mua nguyên vật liệu nhà xưởng để vận hành tạo giá trị thặng
dư.
Chuyển nền sản xuất nhỏ lên nền
sản xuất lớn, hiện đại Dưới tác động của quy luật giá trị thặng dư và các quy
luật của nền kinh tế của sản xuất hàng hóa, chủ nghĩa tư bản đã làm tăng năng
suất lao động, tạo ra khối lượng của cải khổng lồ hơn nhiều xã hội trước cộng lại.
Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã giải phóng con người khỏi xã hội phong kiến,
đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, tự túc, tự cấp, chuyển sang phát triển
kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghía, chuyển sản xuất nhỏ lên sản xuất hiện đại.
Gần 20 năm phát triển
(1990-2008) tốc độ tăng trưởng kinh tế của VN liên tục giữ ở mức khá cao, tốc độ
tăng GDP bình quân giai đoạn 1990-2008 là 7,56%/năm. Tốc độ tăng kinh tế cao,
trong khi tốc độ tăng dân số được kìm hãm, đã dẫn đến mức thu nhập GDP bình
quân trên đầu người mỗi năm một tăng. Nếu năm 1990, GDP trên đầu người của VN
chỉ khoảng trên 100 USD, thì đến năm 2007, GDP/người đã đạt 835 USD, tăng trên
8 lần. Năm 2008, GDP trên đầu người ước tính đạt khoảng 1.047 USD/người (xem Bảng
1). Với mức thu nhập này, VN lần đầu tiên thoát ra khỏi nhóm nước nghèo (nhóm
nước có thu nhập thấp nhất). Theo cách phân loại của Ngân hàng Thế giới
So với các nước trong khu vực, VN có mức tăng trưởng cao thứ
ba, sau Trung quốc và Ấn độ. Dưới đây là tốc độ tăng trưởng kinh tế VN so với tốc
độ tăng trưởng kinh tế thế giới, kinh tế các nước và nhóm nước.
Nguồn: IMF (năm 2008, số ước
tính của IMF)
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế VN
so với tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới và nhóm nước theo khu vực ĐVT:%
Nguồn :WB, IMF và UNESCO
Bảng 5 :Vị trí nền kinh tế VN trong nền kinh tế thế giới qua
các chỉ số (2007)
Hơn 20 năm đổi mới và hội nhập, kinh tế VN không ngừng phát
triển với tốc độ cao, VN đã thoát ra khỏi nhóm các nước có mức thu nhập thấp, mức
sống người dân được cải thiện, tỷ lệ nghèo giảm mạnh, nền kinh tế đang chuyển
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, như đã trình bày, những hạn
chế và những thách thức của hội nhập không phải là ít. Nhiều chỉ số phát triển
còn thấp.
1.Thực trạng sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta:
Nước ta có nguồn
lao động
dồi
dao, số người
trong độ tuổi
lao động
chiếm
phần
đa số ngoài
ra con phải kể
đến hang triệu
người
già vẫn
còn khả năng
lao động
và mong muốn được lao động. Thêm vào đó người
lao động
Việt
Nam lại
cần
cù, chăm chỉ, năng động có khả năng
thich ứng
thị trường cao, nhanh chóng nắm
bắt
kỹ thuật
mới
ứng
dụng
vào sản
xuất
kinh doanh. Tuy đây là một thuận lợi
lớn
của
nước
ta song chất lượng lao động va trinh độ kỹ thuật,
tay nghề của
lao động
Việt
Nam con thấp, cơ cấu
ngành không hợp lý, tỷ lệ người
trong độ tuổi
lao động
không có việc làm cao.
2. Vấn đề sử dụng nguồn vốn:
Hiện nay, trong lĩnh vực
quản
lý nguồn
vốn
đầu
tư còn
nhiều
bất
cập
như:
không theo kịp đòi hỏi của
thực
tiễn
đặt
ra, lỏng
lẻo
trong khâu kiểm tra, giám sát việc
thực
hiện
nguồn
vốn
đầu
tư,
gây những
hiện
tượng
lãng phi, tham nhũng.
Tình trạng đầu tư dàn trải,
kéo dài, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Công tác giảm nghèo chưa thực sự bền vững...
Số lượng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành quá nhiều, tính ổn định chưa
cao, nhiều nội dung bị sửa đổi, bổ sung nhiều lần hoặc thay thế, gây khó khăn
trong triển khai thực hiện.
Bố trí vốn thiếu tập trung là điểm yếu
lặp đi lặp lại nhiều năm, số dự án đầu tư mới cao hơn số dự án kết thúc trong mỗi
kỳ, vốn bình quân cho một dự án có xu hướng giảm, nhiều bộ, ngành, địa phương
không thực hiện đúng quy định về quản lý đầu tư.
Thất thoát lãng phí vẫn còn lớn mà hiện tại chưa thể khẳng định con số
chính xác do chưa kiểm toán. Qua thanh tra một số công trình trong các năm
2002-2003, tỷ lệ sai phạm tài chính là từ 13.6% đến 19% số vốn.
Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn chưa cao, nhất là vốn ngân sách. Vốn tín dụng
đầu tư phát triển, đầu tư của doanh nghiệp nhà nước cũng được đánh giá là kém
hiệu quả. Báo cáo của Chính phủ nêu lên tình trạng nợ quá hạn, nợ kéo dài. Đặc
biệt, 2 chương trình đánh bắt xa bờ và mía đường có số nợ quá hạn và lãi treo
chiếm tới 40% nợ quá hạn và lãi treo của toàn hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển.
Báo cáo thừa nhận công tác quản lý sử
dụng vốn còn nhiều yếu kém, thể hiện cả ở phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán
bộ. Theo báo cáo giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, thì chính cơ chế các
bên cùng nằm trong một bộ đã tạo ra những đường dây khép kín trong việc chạy dự án, chạy vốn đầu tư
, khó kiểm tra, giám sát, khó phát hiện vi phạm trong việc đã sử dụng nguồn vốn tối đa hay chưa hoặc có
phát hiện nhưng chậm ngăn chặn thất thoát, lãng phí, sai phạm.
3. Áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất:
Nhận thức của các ngành, các cấp về khoa học và
công nghệ chưa đầy đủ và có phần hạn chế, chưa coi khoa học và công nghệ là giải
pháp thúc đẩy hoạt động của ngành, địa phương và doanh nghiệp; do vậy, chưa có
sự quan tâm thoả đáng đối với hoạt động này.
Cơ chế quản lý kinh tế chưa tạo nhu cầu thực sự đối với khoa học và công nghệ. Chưa thực sự coi đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát triển. Đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ chưa đến 'ngưỡng'. Thiếu các cơ chế, chính sách hỗ trợ đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất và đời sống, đổi mới công nghệ.
Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ kém hiệu quả, nhưng chậm được đổi mới, không phát huy được năng lực khoa học và công nghệ hiện có. Hệ thống quản lý khoa học và công nghệ chậm được kiện toàn và củng cố. Cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ còn nhiều bất cấp, đặc biệt là việc quy định giá trị công lao động chất xám, các chế độ chi tiêu, thủ tục thanh quyết toán.
Cơ chế quản lý kinh tế chưa tạo nhu cầu thực sự đối với khoa học và công nghệ. Chưa thực sự coi đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát triển. Đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ chưa đến 'ngưỡng'. Thiếu các cơ chế, chính sách hỗ trợ đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất và đời sống, đổi mới công nghệ.
Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ kém hiệu quả, nhưng chậm được đổi mới, không phát huy được năng lực khoa học và công nghệ hiện có. Hệ thống quản lý khoa học và công nghệ chậm được kiện toàn và củng cố. Cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ còn nhiều bất cấp, đặc biệt là việc quy định giá trị công lao động chất xám, các chế độ chi tiêu, thủ tục thanh quyết toán.
Khối doanh nghiệp nhà nước hoạt động ít hiệu quả, qui mô vốn nhỏ, trình độ công nghệ, năng lực cạnh tranh còn rất hạn chế; đối với nhiều doanh nghiệp, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ chưa trở thành nhu cầu bức thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh. Doanh nghiệp khu vực tư nhân thì quá non yếu. Do vậy, đã không tạo nên được yêu cầu đối với khu vực nghiên cứu để sáng tạo và phát triển công nghệ. Các trường đại học trên địa bàn thực sự chưa vào cuộc để đóng vai trò là 'người cung cấp chính' trên thị trường khoa học và công nghệ của thành phố.
Thiếu chiến lược qui hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học và công nghệ. Chưa có cơ chế, qui định về việc huy động, tập hợp lực lượng khoa học và công nghệ trên địa bàn. Tinh thần cộng tác trong nghiên cứu khoa học và công nghệ chưa cao. Trong công tác quản lý đào tạo nguồn nhân lực còn có sự chồng chéo và thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan.
Theo lý luận giá trị thặng
dư của
Mác, máy móc không tạo ra gia trị thặng
dư,
nhưng
nó tạo
điều
kiện
để tăng
sức
sản
xuất
của
lao động,
hạ giá
trị cá
biệt
của
hàng hoá thấp hơn giá trị của
thị trường,
nhờ đó
mà giá trị thặng
dư tăng
lên. Ngày
nay, việc
ứng
dụng
khoa học
– kỹ thuật
đã trở thành
một
nhu cầu
không thể thiếu
đối
với
nông nghiệp, đem lại gia trị kinh
tế cao
như sản
xuất
thu hoạch
bảo
quản
chế biến...
Đối
với
công nghiệp, nhất là trong ngành
công nghệ thông
tin, điện
tử,
viễn
thông đa ứng dụng nhiều
thanh tựu
khoa học,
kỹ thuật
để hội nhập ra thế giới..
4.Vấn đề bóc lột trong sản
xuất và phân phối gia trị thặng dư ở nước ta:
Nước ta chuyển
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện cho nền
kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện, nhưng đồng
thời cũng tạo ra sự chênh lệch về thu nhập, mức sống ngày càng rõ nét hơn,
trong đó phân hóa giàu nghèo đang là một trong những vấn đề xã hội bức xúc hiện
nay. Cùng với những người nghèo thì cũng đã có nhiều người giàu lên nhanh
chóng.
Nhóm có thu
nhập cao là các giám đốc điều hành, trưởng đại diện, trưởng phòng, cán bộ phụ
trách kinh doanh… đang làm việc tại các doanh nghiệp có vốn dầu tư nước ngoài,
công ty liên doanh, các công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng,
chứng khoán, bác sĩ tại một số bệnh viện, phòng khám.
Ngược lại,
nhóm có thu nhập thấp là công nhân lao động đang làm việc trong các khu công
nghiệp, doanh nghiệp nước ngoài…Tại Hà Nội, chênh lệch giữa người có tiền lương
cao nhất so với trung bình là 42 lần (75,2 triệu đồng/tháng với mức bình quân
1,8 triệu đồng/ tháng). Tại thành phố Hồ Chí Minh con số chênh lệch còn lên đến
109 lần (240 triệu đồng/tháng so với 2,2 triệu đồng/tháng).
Bên cạnh đó, một số công
ty sản xuất hàng hóa đổ tới Việt Nam mở nhà máy sản xuất chỉ vì giá nhân công ở
Việt Nam quá rẻ và chủ nhân mặc sức bóc lột sức lao động. — Matthias Duhn, Giám đốc Phòng Thương Mại Châu
Âu tại Việt Nam nhận định như vậy tại một hội thảo do Cục Xúc Tiến Thương Mại,
Bộ Công Thương phối hợp tổ chức ngày 10 /12 /2010. Bản tin tờ Thanh Niên thuật
lại các con số khảo sát lương bổng công nhân tại khu vực Á Châu được nêu ra tại
cuộc hội thảo nói trên cho thấy:
“Indonesia $82
USD/tháng, Trung Quốc $117 USD/tháng, Thái Lan $156 USD/tháng, Philippines $167
USD/tháng, Malaysia $336 USD/tháng, Ðài Loan $540 USD/tháng, Hàn Quốc $830
USD/tháng, Singapore $1,146 USD/tháng và Nhật $1,810 USD/tháng.”Chỉ được trả “với
gần $49 USD/tháng, lương của người lao động Việt Nam chỉ xếp trên Campuchia – với
$47.36 USD/tháng”, ông Matthias Duhn nói rõ.
Ngay nay sức cạnh tranh trên thị trường
ngày càng lớn, để thành công trong
công việc
kinh doanh, người chủ kinh doanh ngày nay
không chỉ có
đóng góp tài sản, tiền vốn
mà còn đóng góp sức lao động của
mình vào quá trình sản xuất. Sức
lao động
đó trực
tiếp
góp phần
tạo
ra giá trị
thặng dư. Đồng thời còn tạo
mối quan hệ tinh thần giữa người lao động và cấp trên. Phân phối
theo lao động thì dựa trên nguyên tắc
lao động
ngang nhau thi hưởng ngang nhau, làm nhiều
hưởng
nhiều,
lam ít hưởng
ít.
Với xu thế cổ phần
hóa trong sự hình thành và phát triển
hệ thống
doanh nghiệp, cổ phần góp vốn
của
người
lao động
và người
lao động
cũng được
phân phối
một
phần
lợi
nhuận
cho vốn
– theo vốn
của
họ.
Đây là hình thức phân phối
giá trị thặng
dư.Nhưng
trong xã hội cũng có những
người
không thể tham
gia góp vốn và lao động
được
thi cần
phải
có hinh thức phân phối
lại
qua các quỹ phúc lợi công cộng
của
xã hội
và của
tập
thể.
Nội
dung của
hinh thức
phân phối
này được
biểu
hiện
ở việc:
mọi
công dân đều phải co nghĩa vụ đóng
thuế cho
Nhà nước
- Nhà nước
là đại
diện
cho lợi
ích của
tòan dân, tòan xã hội. Nhà nước trich một
phần
ở trong
ngân sách thu từ thuế
lập quỹ phúc lợi
xã hội.
Những
người
được hưởng
họ sẽ không
trực
tiếp
được
hưởng
ngay một
lúc toàn bộ giá trị mà họ đã
sáng tạo
ra mà họ sẽ được
hưởng
gian tiếp
từ từ thông
qua các quỹ phuc lợi hay các hàng hoá
công cộng.
2.
Một
số giải pháp để vận dụng lý luận giá trị thặng dư nhằm phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay:
a. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tập trung đầu tư cho công nghiệp:
Cần phải chuyển
dịch
nhanh chóng cơ cấu vốn đầu tư
theo ngành theo hướng
tăng đầu
tư cho
ngành sản
xuất
vật
chất.
Vi chỉ co
phat triển
cong nghiệp, chung ta mới
thực
sự phat
huy được
năng lực
nội
sinh. Tập
trung đầu
tư cho
công nghiệp, với mục
tiêu lấy
đó làm đà để phát triển các ngành khác
trong nền
kinh tế quốc
dân, trong đó đặc biệt phải
đầu
tư cho
ngành công nghiệp chế biến,
cần
phải
chú ý đầu
tư cho
ngành công nghiệp chế biến
nông – lâm sản, vi đây là chìa khóa, nhằm
nâng cao giá trị, khả năng cạnh
tranh của
hàng hóa nông lâm sản trên thị trường
thế giới.
Việc
chuyển
dịch
cơ cấu
đầu
tư nay
cần
được
coi la nhiệm vụ
của tất cả
cac thanh phần
kinh tế trong
nền
kinh tế thị trường
định
hướng
XHCN, chứ không
phải
chỉ la
nhiệm
vụ của
Nhà nước
hay một
vai doanh nghiệp nhà nước. Để thực hiện
thành công mục tiêu đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại hóa.
Cần gắn việc chuyển
dịch
cơ cấu
đầu
tư với
việc
chuyển
dịch
cơ cấu
kinh tế nhằm
đảm
bảo
sự phát
triển
bền
vững
của
nền
kinh tế quốc dân. Thực
hiện
tự do
di chuyển
vốn
giữa
các ngành kinh tế, nhưng đồng thời
Nhà nước
phải
đóng vai điều tiết đầu
tư bằng
những
chinh sách kinh tế vĩ mô (như thuế,
và những
ưu
đãi, khuyến khích đối
với
những ngành
cần
đầu
tư)
nhằm
đảm
bảo
việc
chuyển
dịch
cơ cấu
vốn
đầu
tư cũng
như cơ cấu
kinh tế theo
định
hướng
phát triển
kinh tế -
xã hội.
Ứng
dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong tất cả các ngành, các lĩnh vực để đổi mới
và phát triển. Đảm bảo điều kiện cho mọi người sử dụng thông tin như một nguồn
tài nguyên quan trọng nhất để nâng cao tri thức và cải thiện chất lượng sống;
phát huy tiềm năng con trí tuệ của người Việt Nam, tạo phong cách làm việc
trong nền kinh tế năng động. Có chính sách, biện pháp khắc phục sự cách biệt về
thông tin giữa các vùng, các đối tượng dân cư
.
b. . Khuyến khích và thu hút đầu tư:
Cải thiện môi trường
kinh doanh trong nước. Thực hiện
sự bình
đẳng
giữa
các doanh nghiệp nhà nước và cac doanh nghiệp
thuộc
thành phần
kinh tế tư nhân,
đặc
biệt
la trong lĩnh vực vay vốn ở các
ngân hàng. Tiếp tục tiến hành cải
cach thủ tục
hành chinh, giảm thiểu các thủ
tục
cho các doanh nghiệp, vì trong kinh doanh cơ hội
tốt
chỉ xuất
hiện
trong thời
gian ngắn.
Tăng cường khả năng đầu
tư của
cac doanh nghiệp trong nước.
Xây dựng
một
hệ thống
thông tin về tinh hinh khoa học
kỹ thuật
của
thế giới
cho các doanh nghiệp. Tăng cường
hoạt
động
xúc tiến
thương
mại,
mở rộng
thị trường
cho các doanh nghiệp trong nước.
Về thu
hút vốn
đầu
tư nước
ngoai, cần
thông qua các hoạt động ngoại giao, thuyết
phục
các nước
công nhận
rằng
hiện
nay Việt
Nam đang thực hiện kinh tế thị trường,
thông qua các buổi thuyết trình hay triển
lảm tại
nước
ngòai để giới
thiệu
về môi
trường
đầu
tư tại
Việt
Nam, các chính sách ưu đãi đầu tư đối
với
đầu
tư nước
ngoài cho các doanh nhiệp, doanh nhân nước
ngoài, cũng như với kiều bao Việt
Nam ở
nước
ngoài.
Khuyến khích tất cả
các thành phần kinh tế, các hình thức đầu tư nước ngoài tham gia phát triển đầu
tư. Tháo gỡ các rào cản, tạo điều kiện cho mọi thành phần và chủ thể kinh tế
tham gia xây dựng, đầu tư và phát triển; khuyến khích cạnh tranh để giảm giá,
nâng cao chất lượng. Có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các doanh nghiệp
kinh doanh nước ngoài và trong nước ( không thu thuế doanh thu, thuế suất thu
nhập công ty thấp nhất, cho vay với lãi suất ưu đãi đặc biệt.... ).
c.
.Không
ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư:
Hiệu quả sử dụng
vốn
đầu
tư là
tiêu chí quan trọng nhất để đánh
giá hoạt
động
đầu
tư.
Khi nói đến hiệu quả đầu
tư là
không chỉ nói
đến
hiệu
quả kinh
tế mà
còn phải
nói đến
hiệu
quả xã
hội
(tức
la việc
đầu
tư đó
có thể thu
hut được
bao nhiêu lao động; ảnh hưởng
đến
môi trường
ở mức
độ nào…).
Việc
nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn
đầu
tư phụ thuộc
vào mục
đích của
hoạt
động
đầu
tư là
hiệu
quả kinh
tế hay hiệu
quả xã
hội.
Vì vậy,
khi đầu
tư phải
xác định
rõ mục
đích đầu
tư và không
được
thay đổi
mục
đích đó trong quá trình tiến hành hoạt
động
đầu
tư.
Thực
hiện
quyền
tự chủ trong
kinh doanh của các thành phần
kinh tế,
tận
dụng
tính năng động của các thành phần
kinh tế tư nhân,
phát triển
sản
xuất.
Chủ đầu
tư phải
được
độc
lập
trong việc
lựa
chọn
lĩnh vực
đầu
tư và
phương
án đầu
tư,
tránh tình trạng đầu tư theo
phong trào. Đối với các doanh nghiệp,
sử dụng
vốn
có hiệu
quả kinh
tế lá
chu ý đến
việc
thực
hiện
gia trị thặng
dư,
theo ly luận gia trị thặng
dư của
Mac, giá trị được sinh ra trong lĩnh vực
sản
xuất,
chứ không
phải
trong lưu
thông, nhưng quá trình lưu
thông lại
là quá trình thực hiện giá trị,
mà nếu
giá trị không
được
thực
hiện
thi cũng không có giá trị thặng dư.
Trong quá trinh sản xuất, doanh nghiệp
phải
chú ý đến
giá trị sử
dụng
của
hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường,
đồng
thời
phải
sử dụng
các phương
thức
có hiệu
quả để ban
hành, nhằm
thực
hiện
giá trị thặng
dư.
Khuyến
khích các doanh nghiệp áp dụng khoa học
kỹ thuật
tiên tiến,
nhằm
nâng cao năng suất lao động, thu giá trị thặng
dư siêu
ngạch.
Vi vậy, phải chú trọng
nâng cao năng lực quản lý vốn
đầu
tư bằng
cách: nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ
về quản
lý hoạt
động
đầu
tư cho
các cán bộ chuyên trách. Thường
xuyên kiểm
tra trinh độ của các cán bộ này.
Khi giải
quyết
bất
kỳ một
vấn
đề
gì của
hoạt
động
đầu
tư,
một
mặt
phải
dựa
trên ý kiến, nguyện vọng,
lực
lượng,
tinh thần
chủ động,
sáng tạo
của
các đối
tượng
bị quản
lý , mặt
khác phải
có một
trung tâm quản lý tập trung và thống
nhất
với
mức
độ phù
hợp,
không quan liêu, có sự phân cấp trong việc
quản
lý hoạt
động
vốn
đầu
tư.
5.
Nâng cao chất lượng nguồn lao động,
phát triển thị trường lao động trong nước:
Phát triển thị trường lao động với
tư cách
là một
yếu
tố đầu
vào quan trọng của quá trình sản xuất,
theo đó cung về lao động phải
đáp ứng
cầu
về lao
động cho công nghiệp
hoá, hiện
đại
hoá. Cần phải chuyển
dịch
nhanh cơ cấu
lao động,
phù hợp
với
mục
tiêu công nghiệp
hoá, hiện
đại
hoá hiện
nay theo chủ trương của Đảng
và Nhà nước.
Tăng cả về
số
lượng và chất lượng
của
lao động
trong ngành công nghiệp,
giảm
về số lượng
lao động
trong ngành nông nghiệp. Phân bố cơ cấu lao động hợp lý giữa nông thôn và
thành thị. Khuyến khích xây dựng các khu công nghiệp, nhà máy ở các vùng nông
thôn để thu hút nguồn lao động làm việc tại địa phương, giảm bớt nguồn lao động
quá tải ở thành thị.
Nâng cao chất lượng đao tạo nghề ở các
trường
đại
học,
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp.
Cải
cách phương
pháp đao tạo, gắn việc
dạy ly thuyết với
thực
hành, khuyến khích sinh viên tham gia nghiên cứu
khoa học. Nhằm tăng lao động
lành nghề,
lao động
có tri thức để
tiếp nhận kỹ
thuật, công nghệ mới.
Tăng nhanh tỷ lệ
lao động chất
xám, lao động có kỹ thuật.
Thường xuyên đao tạo
mới
và đào tạo
lại
lao động,
để đáp
ứng
nhu cầu
trên thị trường
sức
lao động,
đồng
thời
phải
đảm
bảo
cơ hội
bình đẳng
về việc
làm cho người lao động. Khuyến
khích các doanh nghiệp phối hợp
với
nhà trường
trong việc
đào tạo. Đối với các doanh nghiệp
cần
phải
thực
hiện
nghiêm túc việc tổ chức khám chữa
bệnh
định
kỳ cho công nhân, đặc biệt là với
những
ngành nghề lao động trong môi trường
độc
hại.
Để phát triển thị trường
sức
lao động
ở nước
ta còn cần
phải
nhanh chóng cải cách chế độ tiền
lương,
chế độ tiền
lương
mới
cần
phải
có sự phân
biệt
đang kể về thu
nhập
trên cơ sở lấy
hiệu
quả lao
động
làm chính, phân biệt giữa người
làm ít với
người
làm nhiều,
giữa
lao động
phức
tạp
với
lao động
giản
đơn.
Sự phan
biệt
này góp phần thúc đẩy quá trình tự nâng
cao chất
lượng
lao động
đối
với
mỗi
người
lao động,
khuyến
khich người
lao động
ban sức
lao động
của
họ ở những
nơi
có mức
tiền
lương
cao. Mặt
khac vẫn
phải
duy trì những ưu đãi xã hội
và thực
hiện
tốt
vấn
đề bảo
hiểm
xã hội…
Đổi mới mạnh mẽ hệ thống quản lý giáo dục, tập trung vào vấn đề
quản lý chất lượng. Xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng đào tạo, tăng cường
thanh tra kiểm tra, thay đổi cách tổ chức thi cử, tuyển sinh (hiện nay chỉ nặng
về kiến thức sách vở!), khắc phục tình trạng nặng về quản lý đầu vào, nhẹ quản
lý đầu ra; kiên quyết chống bệnh thành tích đang ngăn cản con đường đi tới chất
lượng.
6.
Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước về kinh
tế và giữ vững định hướng XHCN:
Vai trò quản lý của Nhà nước là
định hướng chiến lược phát triển, tạo môi trường cho sản xuất kinh doanh, lo
xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, sử dụng các công cụ chính
sách để hướng dẫn sản xuất, dùng công cụ luật pháp để hạn chế mặt trái của kinh
tế thị trường, kiểm soát và can thiệp vào kinh tế vĩ mô không để cho các lực lượng
thuần túy thị trường (nhất là về tài chính tiền tệ) lũng đoạn, làm rối loạn nền
kinh tế. Nhà nước có chính sách điều tiết thu nhập, thực hiện công bằng xã hội,
hỗ trợ các "nhóm yếu thế", giữ định hướng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Các cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất kinh doanh (giao thông, năng lượng v.v…)
cần có chính sách khuyến khích, thu hút kinh tế tư nhân tham gia đầu tư họ tự
chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư; giảm hẳn cách làm sử dụng vốn ngân sách
nhà nước giao cho doanh nghiệp nhà nước rất kém hiệu quả như lâu nay. Kể cả
phát triển các dịch vụ công (văn hoá, giáo dục, y tế....) cũng cần có chính
sách khuyến khích tư nhân đầu tư, thực hiện chủ trương xã hội hóa kết hợp với sự
quản lý và đầu tư của nhà nước.
Lấy ví dụ cụ thể là trong việc quản
lý đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp,
hiện
nay còn có nhiều cơ
quan thuộc các cấp
khác nhau quản lý việc đăng ký kinh
doanh, gây tình trạng lộn xộn,
khiến
việc
nắm
về số lượng,
việc
kiểm
tra giám sát việc kinh doanh của
các doanh nghiệp khó khăn. Cần
phải
quy định
riêng một
cơ
quan làm công việc này. Kiện toàn hệ thống
pháp luật
và các chính sách kinh tế vĩ mô để nâng cao năng lực
quản
lý của
Nhà nước.
Hệ thống
pháp luật
phải
thống
nhất,
một
mặt
phải
bảo
đảm
việc
trả lương
tương
xứng
cho người
lao của
các doanh nghiệp, mặt khác phải
định
hướng
dư luận,
bảo
vệ những
người
có thu nhập cao chính đáng. Các chính sách kinh
tế vĩ
mô, phát huy đúng tác dụng điều tiết
nền
kinh tế,
tránh những
tác động
tiêu cực
của
nền
kinh tế thị trường,
khuyến
khích sản
xuất
phát triển…
Hiện nay, chúng ta đang phát triển
nền
kinh tế nhiều
thành phần,
nhiều
hình thức
sở hữu,
trong đó có sở hữu tư
nhân, nghĩa là nền
kinh tế
ở nước
ta vẫn
còn bóc lột ở
mức độ
nào đó với nhiều hình thức “thiên biến
vạn hóa”. Để giảm sự
tiêu cực đó, nhà nước
cần
thực
hiện
chế độ phân
phối
theo kết
quả lao
động
và hiệu
quả kinh
tế (hay
phân phối
theo mức
độ đóng
góp); phải
thực
hiện
tốt
các chính sách xã hội như phúc lợi
xã hội,
các ưu
đãi xã hội,
bảo
hiểm
xã hội…
Bên cạnh những ưu
đãi đối
với
hoạt
động
kinh doanh của các doanh nhân nước
ngoài hiện
nay ở nước
ta, cũng cần phải xây dựng
hoàn chỉnh
và thực
hiện
nghiêm túc hơn luật kinh doanh đối
với
những
doanh nhân nay, tránh tình trạng coi thường
pháp luật
Việt
Nam của
những
người
nay.
Trong các doanh nghiệp tư nhân cần
phải
tăng cường
sự hoạt
động
của
các tổ chức,
đoàn thể Đảng,
Công đòan, đoàn thanh niên… để bảo vệ
quyền lợi chính đáng của
công nhân. Đặc biệt là đối
với
các doanh nghiệp liên doanh, hay các doanh nghiệp
100% vốn
đầu
tư nước
ngoài, cần
nâng cao năng lực hoạt động
cũng như tư cách
đạo
đức
của
những
người
làm công tác công đoàn
KẾT
LUẬN:
Kinh tế thị trường luôn gắn liền
với các quy luật kinh tế của nó, trong đó có quy luật sản xuất “giá trị thặng
dư”, vì vậy, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay thì sự tồn tại của quy luật sản xuất “giá trị thặng dư” là một tất yếu
khách quan. Do đó, việc nghiên cứu về “giá trị thặng dư” là một điều cần thiết.
Trong bất kỳ một chế độ xã hội
nào thì việc thu được nhiều lợi nhuận vẫn là mục tiêu chính và hàng đầu khi áp
dụng các công nghệ kỹ thuật cao vào quá trình sản xuất. Trong nền sản xuất xã hội
chủ nghĩa của nước ta hiện nay cũng không nằm ngoài cái quy luật ấy, nhưng nền
sản xuất xã hội chủ nghĩa khác biệt với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ở chỗ:
khi áp dụng khoa học công nghệ cao vào quá trình sản xuất các doanh nghiệp
không thu được giá trị thặng dư như các nhà tư bản trước chủ nghĩa tư bản mà họ
chỉ thu được sản phẩm thặng dư mà thôi. Vì vậy việc áp dụng các biện pháp để
tăng cường bóc lột giá trị thặng dư dưới chủ nghĩa tư bản và điều kiện Việt Nam
chỉ có thể xét dưới góc độ làm thế nào để sản xuất ra nhiều sản phẩm thặng dư
chứ không phải giá trị thặng dư như chủ nghĩa tư bản.
Quy luật sản xuất “giá trị thặng
dư” có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển kinh tế, phát triển cơ sở vật
chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, cũng như việc cải thiện đời sống của nhân
dân. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng, giúp chúng
ta có nhận thức đúng đắn, phân biệt giữa giá trị thặng dư và vấn đề bóc lột, để
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cần phát triển kinh tế, nền sản xuất xã hội
phải sản xuất ra giá trị thặng dư đồng thời phải phân phối lượng giá trị thặng
dư ấy một cách công bằng loại bỏ sự bóc lột trong xã hội; áp dụng quá trình sản
xuất giá trị thặng dư: kết hợp sức lao động và tư liệu sản xuất tạo ra giá trị
thặng dư vào nền sản xuất xã hội ở nước ta trong giai đoạn này, khẳng định việc
phát triển chất lượng nguồn lao động, phát triển thị trường lao động, thu hút
và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư là quá trình đúng đắn để phát triển đất
nước; từ việc nghiên cứu này còn giúp Đảng và Nhà nước xây dựng những chủ
trương phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo công bằng xã hội.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét