TÍCH LŨY TƯ BẢN &
LIÊN HỆ ĐẾN KINH TẾ VIỆT NAM
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang trong quá trình
hội nhập, phát triển năng động nhất từ trước tới nay và đã đạt nhiều thành tựu
quan trọng cả về kinh tế lẫn chính trị, nâng cao vị thế đất nước trên thế giới.
Đó là những thành quả rất đáng tự hào mà mỗi chúng ta đều cảm nhận được, là kết
quả của sự lựa chọn đúng đắn đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng sáng tạo các phương pháp, nguyên lý cơ bản của
phát triển kinh tế vào Việt Nam. Với xuất phát điểm thấp, tiềm lực kinh tế yếu,
bị chiến tranh tàn phá, chúng ta đối mặt với thực tế trình độ kỹ thuật, năng
suất lao động thấp.
Với mô hình nền kinh tế hiện đại,
vốn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế. Nhà kinh tế
học hiện đại Samuelson cho rằng một trong những đặc trưng quan trọng của kinh
tế hiện đại là “kỹ thuật công nghiệp tiên tiến, hiện đại dựa vào việc sử dụng
vốn lớn”. Vốn là cơ sở để tạo ra việc làm, tạo ra công nghệ tiên tiến, tăng
năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế, góp phần thúc đẩy
phát triển sản xuất theo chiều sâu. Cơ cấu sử dụng vốn có tác động quan trọng
vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước.
Để giữ vững nhịp độ phát triển kinh
tế với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, một trong những khó khăn lớn nhất
đặt ra là phương thức huy động vốn. Nguồn vốn có thể được huy động từ tích lũy từ
trong nước hay vốn vay nước ngoài. Lý luận và thực tiễn cho thấy tích lũy và huy
động vốn từ trong nước là quan trọng nhất, đảm bảo sự bền vững của nền kinh tế
và không bị lệ tuộc vào bên ngoài.
Với nhận thức sâu sắc về vai trò
của việc tích lũy vốn phục vụ phát triền kinh tế đất nước, trong bài viết nhóm
sẽ trình bày những lý luận chung về tích lũy tư bản và ứng dụng lý luận đó vào
thực tiễn Việt Nam. Do hạn chế về thời gian và trình độ, bài viết sẽ khó tránh
khỏi những sai sót trong quá trình nghiên cứu, nhóm rất mong được nhận sự đánh
giá và hướng dẫn của thầy để bài làm được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn thầy!
Tích lũy tư bản, trong kinh tế chính trị Mác - Lênin là việc biến một bộ phận giá trị thặng dư trở lại thành tư bản, còn
trong các lý luận kinh tế học khác, nó đơn giản là sự hình thành tư bản (tăng lượng vốn dưới hình thức tư bản cố định
và lưu kho của chính phủ và tư nhân).
Là
sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư thành tư bản hay sử dụng giá trị thặng
dư làm tư bản. Tức là nguồn gốc của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư, là lao
động của công nhân bị tư bản chiếm không.
Ví dụ 1: năm thứ nhất quy mô sản xuất là 80c + 20v + 20m. Giả định
20m không bị nhà tư bản tiêu dùng tất cả cho cá nhân, mà được phân thành 10m dùng
để tích luỹ và 10m dành cho tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản. Phần 10m dùng để
tích luỹ được phân thành 8c + 2v, khi đó quy mô sản xuất của năm sau sẽ là 88c
+ 22v + 22m (nếu m vẫn như cũ). Như vậy, vào năm thứ hai, quy mô tư bản bất
biến và tư bản khả biến đều tăng lên, giá trị thặng dư cũng tăng lên tương ứng.
Ví dụ 2: Qui mô tư bản năm thứ nhất là 5000 (C + V), nếu C/V =
4/1, m' = 100% thì:
ü Giá trị hàng hoá năm thứ nhất được sản xuất là 4000C + 1000V + 1000m
= 6000
Để tái sản xuất mở rộng thì nhà tư bản không tiêu dùng hết 1000m cho cá nhân mình mà dành một phần để tích luỹ mở rộng sản xuất.
Để tái sản xuất mở rộng thì nhà tư bản không tiêu dùng hết 1000m cho cá nhân mình mà dành một phần để tích luỹ mở rộng sản xuất.
ü Giả sử tỷ lệ tích luỹ là 50% thì 1000m được phân thành 500m1
để tích luỹ, 500m2 để tiêu dùng cho cá nhân nhà tư bản.
ü Giả sử C/V=4/1 thì 500m1 được phân thành 400C1
(tư bản bất biến phụ thêm) và 100V1 (tư bản khả biến phụ thêm)
Như vậy sang năm thứ hai qui mô tư bản là 4400C + 1100V = 5500
Vậy: Thực chất của tích lũy tư bản là biến một phần m thành tư bản
hay tư bản hoá giá trị thặng dư.
v Cần phân biệt tích luỹ tư bản chủ nghĩa và tích luỹ nguyên thủy tư
bản chủ nghĩa:
-
Tích luỹ nguyên thủy tư bản
chủ nghĩa thực chất là dùng bạo lực để tước đoạt, tách người lao động ra khỏi
tư liệu sản xuất, là tích luỹ phi kinh tế.
-
Tích luỹ tư bản chủ nghĩa là
tư bản hoá giá trị thặng dư, là tích luỹ kinh tế.
Thứ
nhất, nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư và tư bản tích
lũy chiếm một tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. C.Mác nói rằng: “tư bản
ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông của tích lũy mà thôi”. Trong quá
trình tái sản xuất, lãi (m) cứ đập vào vốn, vốn càng lớn thì lãi càng lớn, do
đó lao động của công nhân trong quá khứ lại trở thành phương tiện để bóc lột
chính người công nhân.
Thứ
hai, quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa biến
thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hóa giản đơn, sự
trao đổi giữa người sản xuất hàng hóa theo nguyên tắc ngang giá về cơ bản không
dẫn tới người này chiếm đoạt lao động không công của người kia. Trái lại, nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt
một phần lao động của công nhân, mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không
công đó. Nhưng điều đó không vi phạm quy luật giá trị.
Nguồn gốc của tư bản khả
biến (v) là do công nhân tạo ra (sức lao động) và công nhân ứng trước sức lao động
cho nhà tư bản chứ không phải nhà tư bản ứng trước tiền công cho công nhân.
Nguồn gốc của tư bản ứng
trước là do giá trị thặng dư (m) tích luỹ lại. Bởi vì sau nhiều chu kỳ sản xuất
nhà tư bản đã tiêu dùng hết một lượng lớn hơn nhiều tư bản ứng trước
Công nhân phụ thuộc vào
nhà tư bản cả trong sản xuất và tiêu dùng
ü Trong sản xuất: công nhân
bị nhà tư bản quản lý để tạo ra (v +m). Do đó thu nhập phụ thuộc vào sự phân
chia của nhà tư bản
Cung = cầu với mức tiền lương đủ tiêu dùng
Cung > cầu tiền công thiếu ( tiền công thực tế giảm )
ü Trong tiêu dùng: công nhân
phụ thuộc vào nhà tư bản thương nghiệp. Do đó tiền công danh nghĩa chuyển vào
tiền công thực tế, công nhân sử dụng tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất sức lao
động và tiếp tục làm việc để có thu nhập. Như vậy việc tiêu dùng của công nhân
nhằm phục vụ cho sản xuất của nhà tư bản.
Dưới chủ nghĩa tư bản, muốn tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản không
thể sử dụng hết giá trị thặng dư cho tiêu dùng cá nhân, mà phải trích ra một phần
để chuyển hoá tư bản nhằm tăng quy mô đầu tư so với năm trước.
Phần giá trị thặng dư đó được gọi là tư bản phụ thêm. Tích luỹ tư
bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản
xuất.
Như vậy, thực chất của tích luỹ tư bản đó là tư bản hoá giá trị
thặng dư. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành tư bản được vì giá trị
thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới.
Động
cơ thúc đẩy tích lũy tư bản là quy luật giá trị thặng dư - quy luật kinh tế
tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản
ü
Mục đích theo đuổi giá trị
thặng dư: quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản đòi hỏi sản xuất ngày
càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Muốn vậy, phải phát triển sản xuất
tư bản chủ nghĩa cả chiều rộng và chiều sâu, phải tích luỹ tư bản.
ü Cạnh tranh và lợi nhuận: chiến thắng trong cạnh tranh và có nhiều
lợi nhuận, các nhà tư bản phải tích luỹ tư bản. Nếu không có tích luỹ thì sẽ
không có tư bản để đổi mới kỹ thuật để sản xuất phát triển.
ü Đáp ứng yêu cầu ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật - công nghệ.
Với một khối lượng giá trị
thặng dư nhất định thì quy mô tích luỹ tư bản sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia
giá trị thặng dư cho tích luỹ và tiêu dùng. Còn nếu tỷ lệ phân chia cố định thì
quy mô tích luỹ sẽ phụ thuộc vào các yếu tố.
KTL = f ( n, M)
n: tỷ lệ tích luỹ / tiêu dùng
m: Khối lượng giá trị thặng dư
Khi M cố định thì KTL = f(n) (1)
Khi n cố định thì K TL= f(M) (2)
Ø Trường hợp1
Giả định M không đổi thì
quy mô tích luỹ phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia giữa tích luỹ và tiêu dùng( tiêu
dùng ít thì tích luỹ nhiều và ngược lại)
Ví dụ: M = 200 khi Tích luỹ
100, tiêu dùng 100 thì cơ cấu c/v = 80/20; 70/30; 60/40; 50/50
Trong quá trình phát triển
chủ nghĩa tư bản, thời kỳ đầu các nhà tư bản thường tiết kiệm tiêu dùng để tăng
quy mô kinh tế. Nhưng khi chủ nghĩa tư bản phát triển, các nhà tư bản tiêu dùng
sa hoa hơn nhưng nhờ khối lượng m tăng lên nên không ảnh hưởng đến quy mô tích
luỹ
Ø Trường hợp 2:
Giá trị n cố định, có 4
nhân tố làm tăng M
Khi nghiên cứu sự sản xuất giá
trị thặng dư, C.Mác giả định rằng sự trao đổi giữa công nhân và nhà tư bản là
sự trao đổi ngang giá, tức là tiền công bằng giá trị sức lao động. Nhưng
trong thực tế, công nhân không chỉ bị nhà tư bản chiếm đoạt lao động thặng dư, mà còn bị chiếm đoạt một phần
lao động tất yếu, tức cắt xén tiền công, để tăng tích luỹ tư bản. Các nhà
tư bản còn nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách tăng cường độ lao động
và kéo dài ngày lao động để tăng khối lượng giá trị thặng dư, nhờ đó tăng tích
luỹ tư bản. Cái lợi ở đây còn thể hiện ở chỗ nhà tư bản không cần ứng thêm tư bản để mua thêm máy móc,
thiết bị mà chỉ cần ứng tư bản để mua thêm nguyên liệu là có thể tăng được khối
lượng sản xuất, tận dụng được công suất của máy móc, thiết bị, nên giảm được hao
mòn vô hình và chi phí bảo quản của máy móc, thiết bị.
Năng suất lao động xã hội tăng lên thì giá cả tư liệu sản xuất và
tư liệu tiêu dùng giảm xuống, sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ tư
bản:
ü Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích
luỹ tư bản có thể tăng lên, nhưng tiêu dùng của nhà tư bản không giảm, thậm chí
có thể cao hơn.
ü
Một lượng giá trị thặng dư
nhất định dành cho tích lũy có thể chuyển hóa thành một khối lượng tư liệu sản
xuất và sức lao động phụ thêm nhiều hơn trước.
Do đó, quy mô của tích luỹ
không chỉ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư được tích luỹ, mà còn phụ thuộc vào khối lượng hiện vật do khối
lượng giá trị thặng dư đó có thể chuyển hoá thành. Như vậy năng suất lao động
xã hội tăng lên sẽ có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành
tư bản mới, nên làm tăng quy mô của tích luỹ. Nếu năng suất lao động cao, thì lao động sống sử dụng được nhiều lao động quá khứ hơn, lao động quá khứ đó lại tái hiện dưới hình thái có ích mới, được
sử dụng làm chức năngcủa tư bản ngày càng nhiều, do đó cũng làm tăng quy mô của
tích luỹ tư bản.
Như vậy, năng suất lao động xã hội tăng lên sẽ có thêm những yếu
tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới, nên làm tăng quy mô tích
lũy. Sự giàu có của xã hội không chỉ do độ dài của thời gian lao động thặng dư
mà chủ yếu do năng suất lao động thặng dư quyết định.
Tư bản sử dụng là khối lượng giá trị các tư liệu lao động mà toàn
bộ quy mô hiện vật của chúng đều hoạt động trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Tư bản tiêu dùng là phần giá trị những tư liệu lao động (máy móc,
nhà xưởng) được chuyển hóa vào sản phẩm theo từng chu kỳ sản xuất dưới dạng
khấu hao.
Trong quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị)
tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất, nhưng giá trị của chúng lại chỉ bị
khấu hao từng phần. Như vậy, dù đã mất dần giá trị, nhưng trong suốt thời gian
hoạt động, tư liệu lao động vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Sự hoạt
động này của tư liệu lao động được xem như sự phục vụ không công. Tư liệu lao
động càng hiện đại, thì sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã
tiêu dùng càng lớn, do đó sự phục vụ không công càng lớn, tư bản lợi dụng được
những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều, nhờ vậy quy mô của tích lũy tư
bản càng lớn
Trong công thức: M = m’ + V, nếu m’ không thay
đổi thì khối lượng giá trị thặng dư chỉ có thể tăng khi tổng tư bản khả biến
tăng, và tất nhiên tư bản bất biến cũng phải tăng lên theo tỷ lệ nhất định. Do
đó, muốn tăng khối lượng giá trị thặng dư, phải tăng khối lượng tư bản ứng
trước. Đại lượng tư bản ứng trước càng lớn thì quy mô sản xuất càng được mở
rộng theo chiều rộng và theo chiều sâu. Vì thế, các nhân tố làm tăng quy mô
tích lũy tư bản nói trên càng có điều kiện thực hiện.
Với trình độ bóc lột không thay đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất
là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột
được càng lớn, do đó tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích luỹ tư bản.
Tích lũy dưới chế độ tư bản chủ nghĩa làm cho
của cải tập trung vào tay giai cấp tư sản, người công nhân bị bóc lột nặng nề,
càng tăng thêm thất nghiệp và nghèo đói, làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp công
nhân và giai cấp tư sản ngày càng thêm sâu sắc hơn.
Như vậy, từ sự nghiên cứu bốn
nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản có thể rút ra nhận xét chung là
để tăng quy mô tích luỹ tư bản, cần khai thác tốt nhất lực lượng lao động xã
hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để công suất của máy móc, thiết bị
và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.
Quy
mô của tư bản cá biệt tăng lên thông qua hai con đường là tích tụ và tập trung
tư bản
- Tích tụ tư bản: là sự
tăng lên về quy mô cuả tư bản cá biệt bằng cách tư bản hoá giá trị thặng dư
trong một xí nghiệp nào đó và là kết quả tất yếu của tích luỹ.
- Tập trung tư bản: là sự
tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất những tư bản cá biệt có
sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn.
Tập trung tư bản có thể
qua con đường tự nguyện hoặc cưỡng bức.
- Tích tụ và tập trung tư
bản có quan hệ chặt chẽ với nhau và thúc đẩy lẫn nhau dưới tác động của cạnh
tranh.
So sánh
ü Tích tụ và tập trung TB giống
nhau là cùng làm tăng TB cá biệt
ü Khác nhau: tích tụ làm
tăng quy mô tư bản cá biệt, tư bản xã hội. Còn tập trung TB tăng quy mô TB cá
biệt, không tăng TB xã hội
Tích tụ và tập trung tư bản
dẫn đến kết quả tích tụ và tập trung sản xuất, tập trung sản xuất đến một mức độ
nhất định sẽ hình thành độc quyền. Đặc biệt tập trung tư bản có vai trò rất
quan trọng đối với việc hình thành các công ty lớn và có khả năng đảm bảo các
chương trình phát triển, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn.
Sản xuất bao giờ cũng kết
hợp bởi hai yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động. Sự kết hợp của chúng dưới
hình thái hiện vật gọi là cấu tạo kỹ thuật.
- Cấu tạo kỹ thuật của tư
bản là tỷ lệ giữa khối lượng tư liệu sản xuất với khối lượng lao động cần thiết
để sử dụng tư liệu sản xuất đó. Cấu tạo kỹ thuật sẽ do trình độ lực lượng sản
xuất quyết định.
Khối lượng TLSX =
SL máy móc cho CN sử dụng
= 20 máy
Khối lượng TLTD SL công nhân 10
- Cấu tạo giá trị của tư bản:
là tỷ lệ giữa giá trị của tư bản bất biến vơí giá trị của tư bản khả biến.
- Tuy nhiên do sự biến động
của giá cả theo những tỷ lệ không giống nhau mà cấu tạo giá trị của tư bản có
thể phản ánh sai lệch cấu tạo kỹ thuật của nó, để khắc phục nhược điểm này người
ta phải xét cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Là cấu tạo giá trị của tư
bản do cấu tạo kỹ thuật quy định và phản ánh sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật
đó.
Ví dụ: Cơ cấu giá trị
TB 80c + 20v + 20 m
Cấu tạo hữu cơ C/V = 80/20 = 4/1
Cấu tạo kỹ thuật: 80c: Khối lượng TLSX là 80
20v số lượng LĐ sử dụng là 20
Đất nước Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, nhất là hơn 20 năm
đổi mới vừa qua, tốc độ tăng trưởng khá cao, sản xuất có phát triển, có tích
lũy từ nội bộ, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Để giữ được tố độ tăng
trưởng cao trong những năm tới sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc tích lũy và huy
động vốn cho nền kinh tế. Nhiều chuyên gia quốc tế cho rằng Việt Nam muốn đạt
tốc độ tăng trưởng kinh tế theo hướng rồng bay thì phải nỗ lực huy động tích
lũy trong nước, tăng cường nó có hiệu quả với vốn nước ngoài và đầu tư phải có
hiệu quả cao để hệ số ICOR (Increamental
Capital Output Ratio _ Hệ số chỉ số vốn tăng cần thiết để tăng một sản lượng
nhất định.) chỉ ở mức 2.5 và mức tăng trưởng
ít nhất là trên 8% một năm, như vậy thì thu nhập bình quân đầu người của Việt
Nam có thể tăng gấp 4 – 5 lần trong vòng một thế hệ. Việt nam có thể lựa chọn
các tình huống tăng trưởng tùy theo mức tích lũy trong nước và mức đầu tư trên
GDP cũng như hiệu suất sử dụng vốn. Việt Nam muốn đẩy nhanh tốc độ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nền kinh tế cần huy động tối đa không chỉ nguồn vốn tiền mặt
còn rải rác trong dân cư mà còn cần phải huy động các nguồn tài lực, những kinh
nghiệm quản lý cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Nhóm 4
sẽ xem xét thực trạng và giải pháp tích lũy vốn ở Việt Nam hiện nay.
1. Thực trạng tích lũy vốn tại Việt Nam
Trước đây, trong nền kinh tế bao cấp chỉ huy, cuộc sống của nhân
dân vô cùng khó khăn, tiêu dùng còn thiếu thốn, quá trình tích lũy gặp rất
nhiều trở ngại. Sự can thiệp quá sâu vào nền kinh tế của Nhà nước làm cho các
tổ chức doanh nghiệp không thể phát huy hết được khả năng tham gia vào thị
trường của mình. Nguồn vốn viện trợ của nước ngoài lại chứa đựng nhiều yếu tố
chính trị nên không được phát huy hết khả năng vốn có của nó.
Với chính sách mở cửa phát triển kinh tế, đời sống nhân dân đã
được cải thiện rõ rệt, tổng thu nhập quốc dân tăng nhanh, thị trường hàng hóa
phong phú và sôi động. Tuy nhiên những thành quả đó vẫn còn quá nhỏ bé, nền
kinh tế của nước ta vẫn còn lạc hậu, kém phát triển. Một trong những nguyên
nhân chính là thực trạng tích lũy vốn của ta chưa đáp ứng yêu cầu phát triển,
quy mô vốn của các doanh nghiệp thấp.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy tính đến ngày 01/01/2004,
cả nước có 72.012 doanh nghiệp thực tế hoạt động với tổng số vốn là 1.724.558
tỷ đồng (nếu quy đổi ra đô la Mỹ (thời điểm năm 2003) thì quy mô vốn của các
doanh nghiệp ở Việt Nam chỉ tương đương với một tập đoàn đa quốc gia cỡ trung
bình trên thế giới). Trong đó, doanh nghiệp Nhà nước chiếm 59%, tổng vốn của
doanh nghiệp cả nước (1.018.615 tỷ đồng), doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 19.55%
(337.155 tỷ đồng), doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 21.44% tổng số
vốn các doanh nghiệp cả nước (868.788 tỷ đồng). Xét riêng với mỗi doanh nghiệp,
vốn của từng doanh nghiệp rất nhỏ (năm 2004, bình quân mỗi doanh nghiệp là
23.95 tỷ đồng).
Theo Trung tâm thông tin doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm
2005 toàn quốc có 39.959 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với tổng vốn đăng ký
108.03 ngàn tỷ đồng, đạt 107.3% về số lượng và 141% về vốn đăng ký so năm trước
Số liệu Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết trong quý I năm 2006 có
7.775 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp với số vốn đăng ký
29.063 ngàn tỷ đồng. Tuy giảm 8% về số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh nhưng
tăng 25% về số vốn đăng ký.
Thực tế cho thấy tiềm năng trong dân còn rất lớn nhưng tỷ lệ tiết
kiệm và đầu tư còn thấp, nhiều hộ gia đình và không ít doanh nghiệp còn đầu tư
chưa có hiệu quả, nguồn vốn vẫn không luân chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Đầu tư của Nhà nước tuy đã tăng nhưng còn dàn trải, còn lãng phí; thị trường
tiền tệ, thị trường vốn còn chậm phát triển, lãi suất tín dụng còn chưa phù hợp
với việc đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung vốn, vì thế còn hạn chế đầu tư
phát triển. Các hình thức tích tụ và tập trung vốn chưa tạo ra sức hấp dẫn với
người có vốn và hệ số sử dụng vốn trong nền kinh tế còn thấp. Việc quản lý và
việc sử dụng vốn đầu tư còn phân tán, không tập trung tối đa vốn tiền mặt cũng
như nhân tài vật lực để giải quyết với tốc độ nhanh các công trình thiết yếu
mang tính chất “xương sống” của nền kinh tế, vẫn còn nhiều lãng phí và kém hiệu
quả. Hệ thống tài chính còn thủ tục, phiền hà. Tuy nhiên sự phát triển nhanh
chóng của thị trường chứng khoán thời gian qua đã cho thấy đây là một kênh huy
động vốn thực sự hấp dẫn và rất đáng kể. Tính đến năm 2005, giá thị trường của
chứng khoán đã niêm yết và đăng ký giao dịch đã tương đương 6.5% GDP (năm 2004
con số này là 3.9% GDP).
Trong khi ngồn vốn còn hạn chế thì các giải pháp huy động vốn hiệu
quả đóng vai trò hết sức quan trọng. Do đó những nhà quản lý kinh tế cần tiếp
tục nghiên cứu để tìm ra các giải pháp tích tụ và tập trung vốn đạt hiệu quả
cao nhất, đáp ứng được yêu cầu về vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại
hóa ở nước ta.
2. Những giải pháp tăng cường tích lũy vốn ở Việt Nam
Mục đích của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa: “CNXH nhằm nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần văn hóa cho mọi người dân sung sướng, ấm no”. Trong
điều kiện đất nước ta, từ sản xuất nhỏ lại quá độ lên CNXH, chúng ta không còn
cách nào khác là một mặt huy động toàn bộ sức lực của mọi người, mọi ngành mọi
cấp để tăng gia sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển; mặt khác, phải triệt để
tiết kiệm nhằm tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế nước ta cho sự nghiệp xây
dựng phát triển nền kinh tế sản xuất lớn XHCN.
2.1. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích lũy - tiêu dùng
Vì mục tiêu của xã hội XHCN là không ngừng tái sản xuất mở rộng,
tăng thêm sản phẩm xã hội, nâng cao mức sống của người dân lao động mà chúng ta
cần phải xác định cho được giữa quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng. Tỷ lệ cụ thể
giữa quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế xã hội,
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong xã hội, hiệu quả của kỹ thuật
mới, sử dụng hợp lý các nguồn vật tư lao động và các yếu tố khác.
Tương quan giữa tích lũy và tiêu dùng được coi là tối ưu khi sử
dụng được các tài sản hiện có, thực hiện được mức tích lũy có thể đảm bảo phát
triển sản xuất với tốc độ cao và ổn định mà cuối cùng vẫn đảm bảo tăng tiêu
dùng và tích lũy không đến mức cao nhất. Với tỷ lệ tích lũy và tiêu dùng sắp
xếp như thế nào là thích đáng? Tỷ lệ này có phải cố định không và dựa trên nguyên
tắc nào để sắp xếp tỷ lệ đó? Đây là vấn đề trung tâm của việc phân phối XHCN,
nó thể hiện cụ thể mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế và cải thiện đời sống giữa
lợi ích lâu dài và lợi ích tước mắt, giữa lợi ích của nhân dân và lợi ích của
toàn xã hội. Việc phân chia này không cố định mà thay đổi tùy thuộc vào nhu cầu
của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Đồng thời chúng ta phải không
ngừng khuyến khích tất cả mọi người dân đều ra sức tiết kiệm, tích lũy. Như
vậy, có thể nói tỷ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng không chỉ đơn thuần là tỷ lệ
về kinh tế mà là thể hiện đường lối chính sách của Đảng trong từng thời kỳ nhất
định.
2.2. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn
Để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, trước hết chúng ta phải xác
định rõ từng đối tượng được cấp vốn, từ đó phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý
cho các ngành nhằm tạo ra hiệu quả sử dụng vốn cao hơn.
Đối với các doanh nghiệp nước, chính phủ không nên cấp vốn toàn bộ
mà nên tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp, nhờ vậy doanh nghiệp sẽ có trách
nhiệm hơn với đồng vốn của mình. Đồng thời chính nhờ có cổ phần hóa mà tạo điều
kiện cho các chủ doanh nghiệp phát huy mọi năng lực cũng như khả năng quản lý,
từ đó nâng cao rất nhiều hiệu quả sử dụng vốn.
Việc đồng vốn có được sử dụng hiệu quả hay không, một phần lớn phụ
thuộc vào yếu tố con người. Vì thế cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý có
trình độ năng lực và trách nhiệm cao. Đồng thời Nhà nước cũng phải xem lại mô
hình tổ chức quản lý, chú ý đến đội ngũ cán bộ, tạo điều kiện thuận lợi nhất
cho họ có thể phát huy mọi năng lực của mình. Đặc biệt trong điều kiện cạnh
tranh quyết liệt nguồn vốn FDI trong khu vực cũng như trên thế giới thì việc
thiết lập một cơ chế tổ chức gọn nhẹ không chồng chéo có hiệu quả cũng tạo ra
khả năng cạnh tranh lớn.
2.3. Tăng cường tích lũy vốn trong nước và có biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Tích lũy vốn trong nước có nhiều giải pháp nhưng giải pháp hàng
đầu là nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn này sẽ đóng vai trò quan
trọng để giải quyết các nhu cầu chi của nhà nước về chi thường xuyên, chi cho
đầu tư phát triển và chi cho công nghiệp. Vì vậy nâng cao hiệu quả tích lũy,
tích tụ và tập trung vốn qua ngân sách nhà nước là hết sức cấp bách và có ý
nghĩa thực tiễn hết sức lớn lao.
Một biện pháp để tăng cường lượng vốn là thông qua các tổ chức tín
dụng và ngân hàng. Đây là hai hình thức tích lũy vốn có hiệu quả tương đối cao
do có thể thu hút được vốn còn nhàn rỗi trong nhân dân. Để thực hiện được ngày
càng tốt các nghiệp vụ của mình, một mặt các ngân hàng cần tự đổi mới phương
thức phục vụ, mở rộng các hình thức tiết kiệm, cải tiến thủ tục bảo đảm an toàn
bí mật và ổn định cho tiền gửi của khách hàng. Đồng thời chính phủ cũng phải có
biện pháp nâng cao mức lãi suất nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn nhà rỗi trong
dân. Đặc biệt hệ thống ngân hàng cần kết hợp chặt chẽ với các tổ chức tín dụng
để tích tụ và tập trung vốn được thuận tiện. Chúng ta có thể huy động vốn qua
các công ty bảo hiểm, xổ số kiến thiết, sự tài trợ của các nhà doanh nghiệp...
Mặt khác, việc tích tụ và tập trung các nguồn vốn trong nước từ các nguồn tài
nguyên quốc gia và từ những tài sản công còn bỏ phí, vừa là mục tiêu vừa là
biện pháp cơ bản trước mắt và lâu dài để chúng ta tăng thêm nguồn vốn trong
nước cho đầu tư phát triển. Cần nghiên cứu lại các quy định về đất và quyền sử
dụng đất kết hợp hài hòa với các tổ chức thị trường liên quan. Trong thời gian
tới phải tìm cách để khai thác cao nhất hiệu quả nguồn vốn từ tài sản công. Đó
là cơ sở vật chất trực tiếp sẵn có mà chúng ta có thể huy động bằng cả hiện vật
hoặc huy động bằng tiền trở thành nguồn thu trực tiếp của ngân sách nhà nước,
là cơ sở ban đầu cần thiết để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Và một biện pháp mới được áp dụng ở nước ta hiện nay là thu hút
vốn thông qua thị trường chứng khoán. Đây là hình thức tích tụ và tập trung vốn
rất có hiệu quả đang được các nước phát triển áp dụng. Tuy nhiên để có thể phát
triển thị trường chứng khoán, trước hết chúng ta phải tiến hành cổ phần hóa
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước và đồng thời phải phát triển
hệ thống ngân hàng thương mại. Chính thị trường chứng khoán là một hình thức
của thị trường vốn và nếu thị trường chứng khoán hoạt động tốt nó sẽ góp phần
thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế.
Ngoài nguồn vốn tích lũy trong nước thì trong hoàn cảnh hiện nay
khi nền kinh tế mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì một nguồn vốn có
vai trò đặc biệt quan trọng khác là nguồn vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm vốn
đầu tư trực tiếp và gián tiếp, trong đó vốn đầu tư trực tiếp có ý nghĩa vô cùng
to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế trong nước. Vì thế mà chúng ta cần
phải có chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp, đặc biệt à vốn đầu tư của các
nước phát triển. Để thực hiện được chiến lược này cần phải thực hiện nhiều biện
pháp đồng bộ của chính phủ, trong đó một biện pháp quan trọng là phải cải thiện
môi trường đầu tư thích ứng với điều kiện cạnh tranh mới tạo sức hấp dẫn cho
các nhà đầu tư. Do vậy chúng ta phải nhanh chóng sửa đổi và bổ sung bộ luật đầu
tư nước ngoài cho phù hợp cho tình hình mới nước ta hiện nay đảm bảo cho quyền
lợi nhà đầu tư và cho chính chúng ta.
KẾT LUẬN
Với một nền kinh tế thị trườnd định hướng xã hội chủ nghĩa, đất
nước ta đang ở trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ và năng động nhất từ trước
tới nay. Sự phát triển của nền kinh tế cũng tạo ra áp lực về tăng quy mô vốn
cho nền kinh tế. Vì vậy việc nghiên cứu tích lũy tư bản và việc vận dụng lí
luận đó vào thực tiễn Việt Nam là rất quan trọng và cần thiết. Quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước đạt được thành công trước hết phải có vốn
lớn.
Theo đánh giá của các nhà đầu tư tài chính quốc tế tại Diễn đàn
đầu tư Việt Nam năm 2006, thị trường vốn Việt Nam hứa hẹn nhiều cơ hội đầu tư
do nguồn tích lũy vốn trong dân cao; trái phiếu, cổ phiếu từ các công ty nhà
nước tham gia tiến trình cổ phần hóa đang tạo nhiều hàng hóa cho thị trường.
Thêm nữa, Việt Nam cũng là nước có quy mô dân số đông và trẻ với nhu cầu chi
tiêu lớn. Điều này sẽ kích thích sự sôi động của thị trường vốn. Vấn đề mấu
chốt ở đây phải có những giải pháp thích hợp nào có thể huy động nguồn vốn đó
để sử dụng có hiệu quả nhất.
Sự phát triển bền vững và liên tục của nền kinh tế nước tatrong
một thế giới có xu thế toàn cầu hóa đang tạo ra rất nhiều cơ hội cũng như áp
lực, thách thức đòi hỏi mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp không chỉ biết làm giàu
cho cho mình mà còn phải biết làm giàu cho xã hội. Quy luật cạnh tranh đã buộc
bất cứ một nhà doanh nghiệp nào cũng phải không ngừng mở rộng nguồn vốn đầu tư
để phát triển doanh nghiệp. Con đường duy nhất để mở rộng vốn đầu tư của chính
mình là con đường phải tích lũy ngày càng nhiều hơn để tích lũy tái sản xuất mở
rộng. Vì thế, Nhà nước cần nuôi dưỡng khát vọng cho cả động đồng dân cư luôn
biết say mê tích lũy để mở rộng đầu tư hơn nữa. Mặt khác việc thu hút ngày càng
nhiều vốn đầu tư từ nước ngoài (FDI, ODA...) sẽ có tác động hỗ trợ rất lớn. Đó
chính là con đường dẫn đến sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước, khẳng định tính đúng đắn của chính sách mở cửa, phát triển
nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, sớm đạt mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.